Phát triển thủy điện và nỗi lo về tài nguyên nước
TS. Đào Trọng Tứ (*)
(TBKTSG) - Thủy điện - nguồn tài nguyên gắn với nước và dòng sông, được xem là tài nguyên đem lại giá trị kinh tế cho một quốc gia, góp phần giải quyết nhu cầu năng lượng. Chưa kể các hồ thủy điện còn có tác dụng điều tiết dòng chảy.
Thủy điện: được và mất
Tuy nhiên, các công trình thủy điện thường can thiệp trực tiếp đến bản chất tự nhiên của dòng sông, của hệ sinh thái sông và việc vận hành các công trình thủy điện cũng làm thay đổi dòng chảy của sông ngòi. Những thập niên trước đây, những tác động trên đã không được xem là lớn và dễ bị lãng quên trước nguồn lợi về điện, nguồn thu tài chính do các công trình này mang lại. Ngày nay, những thay đổi trong cơ cấu kinh tế, sự gia tăng dân số, sự diễn biến bất thường của thời tiết, những tác động tiêu cực của các công trình đập nói chung, đặc biệt là thủy điện, đã thực sự tác động đến nhiều mặt đời sống kinh tế, sinh kế và môi trường sống của con người. Sự được và mất của các công trình thủy điện đang đặt ra những thách thức ngày càng lớn đối với con người và thiên nhiên.
Thế giới được lợi từ thủy điện nhưng cũng đã thấm thía bài học về tác động của đập nói chung và thủy điện nói riêng. Trước những sự phản đối dữ dội từ nhiều cộng đồng, từ các nhà môi trường trên thế giới, thế giới đã phải nhìn nhận lại việc phát triển đập và tác động của nó đến kinh tế - xã hội và môi trường. Năm 1998, Ngân hàng Thế giới cùng nhiều tổ chức tài chính, nhiều quốc gia đã thành lập Ủy ban Thế giới về đập (World Commision on Dams - WCD). Ủy ban này đã tiến hành nghiên cứu hơn 1.000 con đập ở trên 50 quốc gia, trong đó có Việt Nam. Năm 2000, ủy ban này đã xuất bản tài liệu “Đập và phát triển - khuôn khổ mới cho quá trình ra quyết định”. Báo cáo cuối cùng của WCD cho thấy ngoài đóng góp về kinh tế, các tác động tiêu cực của các đập là rất lớn, bao gồm: tác động đến cộng đồng dân cư phải tái định cư; tác động thay đổi chế độ dòng chảy hạ lưu; tác động liên quan đến những thay đổi năng suất sinh học sơ cấp của hệ thái; tác động giữ vật liệu bồi lắng và chất dinh dưỡng trươ
́c đập.
Bức tranh thủy điện ở Việt Nam
Theo công bố chính thức của cơ quan chịu trách nhiệm quản lý tài nguyên nước của quốc gia, Việt Nam có 2.372 con sông có chiều dài trên 10 ki lô mét. Nếu phân loại theo diện tích lưu vực, chúng ta có 13 con sông có diện tích lưu vực trên 10.000 ki lô mét vuông. Tổng lượng dòng chảy các sông suối ở và vào đến Việt Nam khoảng 830-840 tỉ mét khối/năm, trong đó 63% chảy từ các quốc gia láng giềng. Lượng nước sinh ra từ chính lãnh thổ Việt Nam chỉ từ 310-315 tỉ mét khối. Như vậy, tài nguyên nước của Việt Nam không phải là phong phú và phụ thuộc vào quốc gia láng giềng ở thượng nguồn của nhiều lưu vực sông. Tuy không giàu về số lượng nước, nhưng Việt Nam được thiên nhiên ưu đãi cho một hệ thống sông suối trải khắp đất nước.
Ở Việt Nam, sau năm 1954 đến những năm 1980, nguồn thủy năng hầu như chưa được khai thác. Các dòng sông lớn vẫn giữ được sinh thái tự nhiên. Tuy nhiên, chỉ trong hơn hai thập kỷ qua, tình hình đã thay đổi lớn. Do kinh tế phát triển, dân số gia tăng nhanh, nhu cầu năng lượng đã gia tăng mạnh mẽ và nguồn lợi từ thủy điện bắt đầu được khai thác một cách ồ ạt. Nếu thập kỷ 1960-1970, cả nước chỉ mới có hai thủy điện loại vừa là Thác Bà (công suất 108 MW) và Đa Nhim (120 MW), và phải mất hơn 10 năm chúng ta mới xây dựng xong công trình thủy điện Hòa Bình (1.920 MW), thì hơn chục năm trở lại đây, trên hầu hết các dòng sông đều đã và đang mọc lên rất nhiều công trình thủy điện lớn, nhỏ.
Theo quy hoạch của Bộ Công Thương vào năm 2010, dự kiến sẽ có 1.021 công trình thủy điện được xây dựng. Đáng nói là thủy điện không chỉ được phát triển trên các sông lớn, các vùng núi hẻo lánh mà ở cả những vùng rất nhạy cảm như rừng quốc gia, khu bảo tồn, khu du lịch thiên nhiên nổi tiếng như Sa Pa, Hoàng Liên Sơn... |
Điều dễ thấy hiện nay là ở đâu lòng sông có độ dốc kha khá, hai bên bờ có thể gánh được một con đập, tạo ra một hồ chứa nước, là nhà đầu tư sẵn sàng xin xây thủy điện. Theo tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), tính đến cuối năm 2009, nước ta có 23 công trình thủy điện vừa và lớn đang hoạt động với tổng công suất lắp đặt 6.200 MW, điện năng sản suất trung bình khoảng 26 tỉ kWh/năm, khai thác gần 30% tiềm năng kinh tế - kỹ thuật của thủy điện ở Việt Nam. Còn theo quy hoạch của Bộ Công Thương vào năm 2010, dự kiến sẽ có 1.021 công trình thủy điện được xây dựng. Đáng nói là thủy điện không chỉ được phát triển trên các sông lớn, các vùng núi hẻo lánh mà ở cả những vùng rất nhạy cảm như rừng quốc gia, khu bảo tồn, khu du lịch thiên nhiên nổi tiếng như Sa Pa, Hoàng Liên Sơn...
Trường hợp lưu vực sông Đồng Nai
Gần đây, dư luận đã chứng kiến khá nhiều những tác động do thủy điện gây ra. Quyền lợi của một nhóm lợi ích đã chưa được đặt đúng chỗ với lợi ích của cộng đồng. Những cái giá phải trả cho sự phát triển này chắc chắn sẽ là rất đắt. Thử nhìn nhận bức tranh phát triển thủy điện ở một lưu vực sông quan trọng của Việt Nam: sông Đồng Nai.
Đồng Nai là lưu vực sông nội địa lớn nhất Việt Nam với diện tích lưu vực 43.681 ki lô mét vuông; tổng lượng dòng chảy hàng năm khoảng 37,4 tỉ mét khối. Lưu vực sông Đồng Nai là vùng phát triển kinh tế năng động bậc nhất của cả nước, mật độ khu công nghiệp và mức độ đô thị hóa cao. Và đây cũng là khu vực có tính đa dạng sinh học cao. Tuy nhiên, so với các khu vực khác, tài nguyên nước trên đầu người ở lưu vực sông Đồng Nai vào loại rất thấp, trung bình 2.296 mét khối/người/năm so với 9.650 mét khối/người/năm (2009). Do những đặc điểm tự nhiên, kinh tế và xã hội như vậy, nguồn nước sông Đồng Nai đã và đang chịu nhiều áp lực: suy thoái, cạn kiệt do sử dụng quá mức và ô nhiễm.
Với quy hoạch phát triển như hiện nay, hệ thống bậc thang thủy điện trên sông Đồng Nai đang đặt tài nguyên nước trước các thách thức lớn. Mật độ thủy điện dày đặc, phần thượng và trung lưu của các dòng chính và chi lưu đã bị chia cắt hoàn toàn: trên dòng chính Đồng Nai là 14 công trình/420 ki lô mét; sông La Ngà: 5/290 ki lô mét; Sông Bé: 6/350 ki lô mét. Trong khi chúng ta đang lo việc xây đập trên dòng chính hạ lưu sông Mêkông sẽ tác động mạnh đến ĐBSCL, thì mật độ công trình hạ lưu dòng chính Mêkông là 11/2400 ki lô mét sông. Như vậy, sự “vỡ vụn” của sông Đồng Nai là điều dễ nhận thấy.
Sự phát triển mạnh thủy điện trên sông Đồng Nai đang đặt ra những thách thức lớn cho môi trường - sinh thái và sinh kế của người dân. Nó sẽ tạo ra thay đổi lớn về cơ cấu dòng chảy tự nhiên xuống các khu vực hạ lưu theo chiều hướng bất lợi: tăng khả năng đe dọa của lũ vào mùa mưa và thiếu nước trong mùa khô. Liệu rồi đây, giá điện từ thủy điện có còn được xem là rẻ nữa hay không một khi tất cả những chi phí từ tác động môi trường, sinh thái, sinh kế… ấy được tính đủ?
_________
(*) Giám đốc Trung tâm Phát triển bền vững tài nguyên nước và Thích nghi biến đổi khí hậu (CEWAREC)