Phòng trà thoái trào?
![]() |
Tình hình khách đến phòng trà hiện nay, ngày đông thì it, ngày vắng thì nhiều. Ảnh Lê Toàn. |
(TBKTSG) - Một nhiếp ảnh gia có ý chọn tối thứ Bảy để rảo quanh các phòng trà ca nhạc với mong muốn thực hiện thêm một số tác phẩm, bổ sung cho bộ sưu tập ảnh về tình yêu âm nhạc của người Sài Gòn. Nhưng anh đã không làm được việc mình muốn. Anh quay về với giọng thở ra: “Phòng trà vắng ngắt”!
Từ 50 đến 500
Montana Jazz Club vừa mới khai trương hồi đầu tháng này với quy mô chỉ 50 chỗ ngồi. Bà chủ phòng trà cho biết với mặt bằng sẵn có, mục tiêu khiêm tốn mà bà nhắm đến là một lượng khách ổn định - những người thực sự đam mê nhạc jazz. Ban nhạc, ca sĩ được chọn lọc, nhưng có lẽ cái tên Montana quá mới mẻ nên chưa được nhiều người biết đến.
Tình hình tương đối “dễ thở” hơn với phòng trà Không Tên. Thứ nhất, Không Tên đã quen thuộc với khách nghe nhạc phòng trà trong gần hai năm qua. Thứ hai, sau khi Tiếng Tơ Đồng đóng cửa cũng như M & Tôi phải tạm ngưng hoạt động do bị lấy lại mặt bằng, Không Tên đang là phòng trà duy nhất còn hoạt động ở mô hình “đại phòng trà” với quy mô hơn 500 khách.
Theo ông Nguyễn Thanh Tâm, người điều hành phòng trà M & Tôi trước đây, hiện không dễ tìm được một mặt bằng ngay tại trung tâm thành phố cho mô hình phòng trà 500-600 khách.
Ông Tâm cho rằng phòng trà ca nhạc phải được đặt ở những vị trí trung tâm, thậm chí là trên những con đường sang cả bậc nhất của đô thị, vì nếu không thì phòng trà sẽ chẳng còn “cốt cách” của phòng trà!
Điều này giải thích vì sao số phòng trà ca nhạc ở một thành phố có tiếng là có thị trường âm nhạc phát triển mạnh lại chỉ đếm được trên đầu ngón tay và hầu hết đều có quy mô dưới 200 khách.
Nhưng dù lớn hay nhỏ thì tình hình khách đến các phòng trà hiện trong tình trạng ngày đông thì ít, ngày vắng thì nhiều. Có ý kiến cho rằng kinh doanh phòng trà ngày nay không dễ tìm kiếm lợi nhuận như những năm 2000-2004, bởi đã qua cái thời phòng trà mang đến “khẩu vị” lạ, khách vô phòng trà ồ ạt theo phong trào. Ngày nay, khách đã chán ngán khẩu vị cũ, lại na ná nhau ở hầu hết các phòng trà, trong khi quán bar mọc lên nhiều, quán cà phê cũng không ít.
Thực ra, nếu để ý sẽ thấy mỗi phòng trà cũng đặt ra những trọng tâm khác nhau: nếu Ân Nam có nhiều ca khúc trữ tình quê hương thì Văn Nghệ lôi kéo khách với nhiều tên tuổi ca sĩ hải ngoại; Không Tên tổng hợp nhiều dòng nhạc trong khi 2B Lê Duẩn (trước khi bị lấy lại mặt bằng) chỉ chọn lựa những giọng ca thuộc dòng nhạc trữ tình, tiền chiến; Đồng Dao tập trung vào việc thiết kế sân khấu, không gian sang trọng với âm thanh, ánh sáng hiện đại... Tuy nhiên, những khác biệt này được cho là quá nhỏ so với sự trùng lắp gương mặt ca sĩ ở hầu hết các phòng trà trong ba tiếng đồng hồ mỗi đêm và suốt 365 ngày mỗi năm.
Theo ông Nguyễn Thanh Liêm, người từng điều hành phòng trà Tiếng Tơ Đồng trong nhiều năm, các nhà kinh doanh phòng trà ca nhạc đang đứng trước thử thách về khả năng sáng tạo những mảng miếng nghệ thuật riêng biệt, đủ để thu hút một lượng khách riêng.
Ông Liêm cho rằng số lượng khách đến phòng trà phụ thuộc rất nhiều vào tài năng người điều hành. “Ngoài việc biết kinh doanh, người điều hành phòng trà phải am hiểu âm nhạc, tâm lý khách nghe nhạc, biết chọn lựa ban nhạc, ca sĩ và còn phải khéo léo trong “đối nhân xử thế” với giới văn nghệ sĩ”, ông Liêm chia sẻ.
Sự biến dạng
![]() |
Khách thưởng thức âm nhạc tại phòng trà Bụi. Ảnh: Lê Toàn. |
Có lẽ với suy nghĩ phòng trà đã đến lúc cần có sự khác biệt mà ông Liêm trở thành người tư vấn mở Montana Jazz Club và trực tiếp điều hành phòng trà này, chấp nhận kén chọn khách nghe là những người thực sự đam mê nhạc jazz. Là một trong những người đã tham gia hoạt động ca nhạc tại Sài Gòn từ trước năm 1975, ông Liêm cho rằng mô hình phòng trà sau một thời gian “biến dạng” để đáp ứng thị hiếu âm nhạc của số đông, nay đang có xu hướng quay về với mô típ cũ. Ông lý giải điều này bằng cả quá trình phát triển của mô hình phòng trà, lấy cái mốc là năm 1975.
Theo ông Liêm, nói đến hai chữ “phòng trà”, chắc hẳn giới mê nhạc tại Sài Gòn trước 1975 sẽ nhớ ngay đến phòng trà nổi tiếng Đêm Màu Hồng, do ban nhạc Thăng Long (gia đình ca sĩ Thái Thanh) lập ra. Đây là mô hình nghe nhạc, giải khát cao cấp trong một không gian nhỏ nhưng ấm cúng. Khu vực trình diễn không mấy phân biệt với khu vực của người nghe.
Khâu trình diễn cũng không cần phải có thiết kế chương trình, không có cả MC. Khách quen đến để gặp gỡ, trò chuyện với ca sĩ, nhạc sĩ mà họ ái mộ, và cả với những người khách quen thuộc và để sống với những ca khúc mà họ yêu thích một cách lịch sự, không ồn ào. Đây được xem là thú giải trí tao nhã, sang trọng và đa số khách nghe nhạc thường có cùng tâm trạng muốn nghe và xem ca sĩ đó hát bài hát đó với khúc dạo (nhạc) đó, thậm chí là hàng đêm và cũng tại chỗ ngồi đó...
Cũng theo ông Liêm, sau 1975, mô hình phòng trà không tồn tại cho đến những năm cuối thập niên 1990, trước khi bar cà phê For You được chuyển đổi mô hình thành phòng trà ca nhạc Đồng Dao. Tuy nhiên, một số người hoạt động trong lĩnh vực âm nhạc vẫn còn nhớ về một sân khấu ca nhạc trữ tình hoạt động thời gian ngắn vào cuối thập niên 1980 trên tầng 5 của khách sạn Majestic.
Đây cũng là mô hình giải khát ca nhạc “sống” nhưng chương trình biểu diễn giống trên sân khấu hơn là trong phòng trà. Tuy vậy, sân khấu ca nhạc này cũng từng được gọi là phòng trà để phân biệt với những loại hình giải trí (liên quan đến âm nhạc) đang phổ biến lúc đó gồm sân khấu ca nhạc ngoài trời, vũ trường, nhà hàng ca nhạc “sống” và bar cà phê “nhạc máy”.
Nhưng có lẽ thời điểm hoạt động phòng trà khởi sắc là từ sau khi Đồng Dao ra đời. Đồng Dao, theo mô típ của Đêm Màu Hồng, đã cung cấp cho giới yêu nhạc một khẩu vị mới. Và chỉ hơn một năm sau đó, tại TPHCM lần lượt xuất hiện thêm những phòng trà như Tiếng Tơ Đồng, M Saigon, Khánh Quân...
Đây cũng chính là thời điểm các vũ trường sau gần 10 năm thịnh vượng đang bắt đầu thưa khách, và đi nghe nhạc phòng trà trở thành một nhu cầu lớn của thị trường khiến phòng trà mau chóng mở rộng quy mô, từ 100 lên 300-400 khách mà đỉnh cao là Tiếng Tơ Đồng, phát triển lên hơn 500 chỗ ngồi nhưng đêm nào cũng gần như kín chỗ, khách muốn chắc ăn phải đặt chỗ trước.
Đi nghe nhạc phòng trà trở thành “mốt”. Các phòng trà thực sự biến thành sân khấu ca nhạc với dàn âm thanh khuếch đại, và để đáp ứng thị hiếu âm nhạc đa dạng, các nhà thiết kế chương trình đưa vào phòng trà đủ thể loại nhạc, không chỉ có nhạc tiền chiến, trữ tình, pop hay rock & roll mà còn có cả nhạc rap, disco, hip-hop, thậm chí có cả múa hiện đại minh họa cho một số tiết mục. Tính chất thân thuộc, gần gũi và điều kiện giao lưu mặt đối mặt giảm dần. Phòng trà biến dạng.
“Một cõi đi về”?
Tình trạng nêu trên đã khiến việc nghe nhạc ở phòng trà này hay phòng trà kia chỉ là chuyện... thay đổi địa điểm, còn “món ăn” thì giống hệt nhau. Ở phòng trà nào cũng vậy, cũng những ca sĩ đó, bài hát đó, chạy “sô” hàng đêm. Được một thời gian khách bắt đầu thấy... ngán!
Trước tình hình doanh số sụt giảm, Tiếng Tơ Đồng đã đổi mới bằng việc đưa ngôi sao ca nhạc vào phòng trà, làm lạ chương trình và nâng mức phụ thu ca nhạc tùy theo giá của “sao”. “Sao” hút khách không chỉ với những fan (người hâm mộ) đơn lẻ tìm đến phòng trà mà còn có cả một fan club sẵn sàng chạy “sô” theo thần tượng của mình để nghe, xem và ủng hộ. Hiện tượng này đã giúp các phòng trà có một lượng khách ổn định và phần nào tạo ra sức hút với đám đông.
Tuy nhiên, các phòng trà phải thừa nhận một thực tế là tên tuổi của các “sao” biến thành con dao hai lưỡi, khi có “sao”, phòng trà mới có khách, còn không có “sao” thì không ai đến. Các phòng trà quay quắt, giành giật “sao”. Giá của “sao” lên vù vù, có “sao” vươn lên tới mức 40 triệu đồng/đêm, thậm chí cao hơn trong khi tiền nước cộng cả phụ thu ca nhạc không cách gì theo kịp.
Tình hình các phòng trà hiện nay rất khó khăn. Mỗi đêm mở cửa đều tốn chi phí như nhau, bao gồm thù lao ban nhạc, ca sĩ cơ hữu, tiền mặt bằng, điện nước, thuê máy móc thiết bị, lương nhân viên phục vụ. Nếu không có giọng hát ngôi sao, khách chỉ đếm được đôi ba chục người, lỗ là cái chắc! Trường hợp thuê “sao” thì cũng chỉ còn vài cái tên ca sĩ hàng “top” là hút khách. Nhưng những ca sĩ này không nhận sô nhiều vì họ cũng sợ khán giả nhàm chán.
Theo ông Nguyễn Thanh Tâm, thời nào cũng có fan hâm mộ nên “sao” lúc nào cũng có. “Tôi không ham lý giải nhiều mà chỉ muốn nắm nhu cầu và tìm cách thỏa mãn nhu cầu”, ông Tâm nói. Do vậy, M & Tôi chuẩn bị khai trương trở lại, với hơn 400 chỗ ngồi, và vẫn tiếp tục sử dụng những tên tuổi ngôi sao.
Trong khi đó, với Montana Jazz Club, ông Liêm đã quay về với mô hình phòng trà nhỏ, không có “ngôi sao” nhưng tìm hướng đi riêng là chuyên dòng nhạc jazz. Phòng trà Đồng Dao vừa tái khai trương với quy mô vừa phải (khoảng 200 chỗ) cũng theo xu hướng giũ bỏ gánh nặng vì tên tuổi các “sao” mà chú ý nhiều đến khâu biên tập chương trình sao cho những giọng hát cơ hữu chọn được dòng nhạc, ca khúc phù hợp, và tập trung đầu tư cơ sở vật chất, thiết kế không gian, trang trí nội thất.
Kinh doanh vì... “ghiền”
Cái khó của kinh doanh phòng trà so với loại hình pub, bar-cà phê hoặc nhà hàng là mức đầu tư lớn, khách khó tính, yêu cầu cao nhưng... chi tiêu ít. |
Cho dù chọn mô hình nào thì sự thành công của các phòng trà hiện nay, xét ở góc độ kinh doanh, đều là những ẩn số và mang nhiều yếu tố may rủi. Theo ông Liêm, cái khó của kinh doanh phòng trà so với loại hình pub, bar-cà phê hoặc nhà hàng là mức đầu tư lớn, khách khó tính, yêu cầu cao nhưng... chi tiêu ít.
Với công thức chung nhất của hoạt động này là mùa cao điểm (mùa khô, ngày lễ, Tết) “nuôi” mùa thấp điểm (mùa mưa), ngày cuối tuần nuôi ngày đầu tuần. Có thể thấy lượng khách đến vào những ngày thứ Bảy, Chủ nhật là thước đo hết sức quan trọng, đặc biệt trong những tháng mưa. “Nếu may mắn có được những ngày cuối tuần không mưa nhưng lại chẳng may vắng khách, xem như việc kinh doanh tuần đó, tháng đó có nhiều nguy cơ lỗ lã”, ông Liêm nói.
Còn theo ông Tâm, hầu như không chủ phòng trà nào xem lợi nhuận từ kinh doanh phòng trà là nguồn thu nhập chính yếu của họ. Đây chỉ là khoản đầu tư thêm vì sở thích nhiều hơn, bởi họ đều là những người yêu thích âm nhạc. Ông Tâm cho biết, những người góp vốn kinh doanh phòng trà đều có lĩnh vực kinh doanh riêng. Có người là nhà cung cấp vật tư ngành in, người buôn bán ô tô, đầu tư bất động sản hoặc kinh doanh nhà hàng…
Ông Tâm đơn cử phòng trà M & Tôi đang được đầu tư 1 triệu đô la Mỹ để trang bị lại hoàn toàn thiết bị nội thất với tham vọng trở thành phòng trà sang trọng nhất ở Sài Gòn. “Với khoản đầu tư này, những người nhắm đến lợi nhuận sẽ không chọn kinh doanh phòng trà. Họ làm vì tình yêu âm nhạc, vì muốn sở hữu một sản phẩm mang tính văn hóa - nghệ thuật, hoặc muốn có một nơi chốn như ý để thư giãn, giao tiếp, gặp gỡ bạn bè vào buổi tối”, ông Tâm nói.
Ông Tâm cho biết có người đầu tư phòng trà vì... “ghiền” không khí phòng trà: một vài giọng ca yêu thích, ánh sáng, âm thanh, hình ảnh nhiều người nghe đang hạnh phúc với âm nhạc, và cả cái cảm giác đi đến phòng trà như đi về nhà...
Cũng có thể đây là câu trả lời cho những ai vẫn thường thắc mắc về hiệu quả của việc kinh doanh phòng trà thời nay, không có lãi nhưng vẫn có người đầu tư!
THANH PHƯƠNG