(KTSG Online) - Chia sẻ với KTSG Online nhân dịp Tết Nhâm Dần, ông Nguyễn Chí Dũng – Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư (KHĐT) – cho rằng tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận của toàn bộ hệ thống chính trị, doanh nghiệp, người dân là yếu tố then chốt quyết định mức độ phục hồi của kinh tế trong thời gian tới.
Bộ trưởng Nguyễn Chí Dũng: Điều khiến tôi trăn trở nhiều nhất là sức lực của doanh nghiệp bị bào mòn trong bối cảnh dịch bệnh vẫn diễn biến phức tạp, dù Đảng, Quốc hội và Chính phủ đã nỗ lực tìm các giải pháp tháo gỡ khó khăn cho người dân và doanh nghiệp. Ngoài ra, nhiều chuỗi cung ứng, chuỗi giá trị bị đứt gãy chưa thể khôi phục hoàn toàn sẽ tiếp tục gây ảnh hưởng lớn tới các doanh nghiệp trong thời gian tới.
Việc thực thi các chính sách, giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp vẫn tồn tại một số hạn chế. Cụ thể, kiến nghị của các doanh nghiệp đều nhấn mạnh vấn đề đơn giản hóa các thủ tục, đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng, nhất quán trong thực thi triển khai các quy định, chính sách trên toàn quốc.
Bên cạnh đó, họ cũng kỳ vọng vào tính công bằng, minh bạch và thái độ sát cánh cùng doanh nghiệp của đội ngũ cán bộ cấp thực thi.
Vì vậy, cần coi việc thực hiện các giải pháp, chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp và khôi phục nền kinh tế là nhiệm vụ trọng yếu, cấp bách trong thời gian tới. Việc này cần sự vào cuộc quyết liệt, trách nhiệm và nhiệt tâm hơn nữa của tất cả các cấp, các ngành, các địa phương đặc biệt ở cấp thực thi chính sách với phương châm “sớm nhất, hiệu quả nhất”.
Ngoài ra, cần chủ động xây dựng chính sách và chuẩn bị nguồn lực cần thiết triển khai các biện pháp hỗ trợ dài hạn, bền vững giúp doanh nghiệp nhanh chóng phục hồi, thích ứng với tình hình mới.
Năm 2021, với phương châm “tính mạng của nhân dân là trên hết, trước hết”, nhiều địa phương đã áp dụng biện pháp giãn cách xã hội trong thời gian dài. Điều này khiến nhiều chuỗi lưu thông hàng hóa và lao động bị đứt gãy.
Với doanh nghiệp, có 119.800 doanh nghiệp tạm ngừng kinh doanh luỹ kế 12 tháng của năm 2021. Trong đó, gần 55.000 doanh nghiệp đã rút lui khỏi nền kinh tế.
Hiện rất nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn trong sản xuất và tiêu thụ hàng hóa. Điều này sẽ khiến giá cả hàng hóa tăng cao, tạo áp lực lên lạm phát nền kinh tế.
Với người lao động, nhiều lao động bị giảm thu nhập, giảm giờ làm hoặc mất việc làm. Tình trạng này buộc họ phải cắt giảm chi tiêu, khiến tổng cầu của nền kinh tế giảm sâu.
Kết quả, tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng 11 tháng của năm 2021 giảm 10,4% so với cùng giai đoạn năm trước, ảnh hưởng không nhỏ tới mục tiêu tăng trưởng của nền kinh tế.
Với đầu tư công, tổng số vốn được giải ngân chỉ đạt 77,8% kế hoạch năm, giảm 5% so với cùng kỳ năm 2020 do giá sắt thép, vật liệu xây lắp tăng cao, một số quy định về giải ngân không phù hợp và sự thiếu tinh thần trách nhiệm của một bộ phận cá nhân, tổ chức liên quan.
Với xuất nhập khẩu, kim ngạch xuất khẩu của khu vực kinh tế trong nước chỉ đạt gần 88,71 tỉ đô-la Mĩ - chiếm 26,4% tổng kim ngạch xuất khẩu và chỉ tăng trưởng 13,4%, trong khi khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) ghi nhận mức tăng 21,1%. Ngoài ra, mối liên kết giữa khu vực kinh tế trong nước với khu vực FDI còn yếu và lỏng lẻo.
Với khu vực nông nghiệp, giá vật tư nông nghiệp và thức ăn chăn nuôi, nuôi trồng thuỷ sản tăng cao trong bối cảnh dịch bệnh với lợn và gia cầm diễn biến phức tạp, còn nhu cầu thị trường chưa phục hồi khiến giá sản phẩm đầu ra của nông nghiệp và thủy sản ở mức thấp. Những yếu tố này khiến người chăn nuôi rơi vào tình trạng thua lỗ.
Với hoạt động điều hành chính sách tài khoá và tiền tệ, Việt Nam tiếp tục đối diện với áp lực lạm phát gia tăng, trần nợ công và nợ xấu ngân hàng. Ngoài ra, tỉ lệ tín dụng so với GDP vẫn ở mức cao, vốn trung, dài hạn của nền kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào hệ thống ngân hàng.
Điều này khiến mục tiêu phục hồi sản xuất, kinh doanh có thể bị cản trở bởi khó khăn về tài chính, bên cạnh khó khăn về thị trường tiêu thụ.
Với hoạt động điều hành giá cả, áp lực lạm phát với kinh tế Việt Nam đang hiện hữu. Theo đó, giá nguyên vật liệu, hàng hoá và dịch vụ trên thế giới có xu hướng tăng cao.
Giá dầu thô dự báo tiếp tục tăng trong những năm tới khi nhu cầu tăng mạnh trong bối cảnh thị trường dầu thô đang trải qua thời kỳ thiếu hụt nguồn cung dài nhất trong nhiều thập kỷ qua. Việc thiếu hụt đầu tư thượng nguồn trong khai thác dầu khi nhu cầu về dầu gia tăng là chỉ báo về giá dầu cao kéo dài trong ít nhất trong năm tới.
Về phía Việt Nam, kinh tế nước ta phụ thuộc nhiều vào nguyên vật liệu nhập khẩu khi tỷ lệ chi phí nguyên vật liệu nhập khẩu hiện chiếm khoảng 37% tổng chi phí nguyên vật liệu của toàn nền kinh tế. Còn chi phí xăng dầu chiếm khoảng 3,52% tổng chi phí sản xuất của toàn nền kinh tế.
Việc giá xăng dầu thế giới gia tăng sẽ làm tăng giá nguyên vật liệu nhập khẩu và cả nguyên nhiên vật liệu trong nước.
Với y tế, Việt Nam đã bộc lộ một số hạn chế về khả năng đáp ứng nhân lực, trang thiết bị, hạ tầng của hệ thống y tế cơ sở trong bối cảnh số người cần được hỗ trợ y tế, an sinh xã hội rất lớn.
Nhìn chung, quá trình phục hồi kinh tế năm 2022 sẽ gặp không ít thách thức với nhiều điểm nghẽn, nút thắt cần giải quyết.
Thứ nhất, Việt Nam có nhiều cải thiện cả về động lực và kết quả phục hồi, phát triển kinh tế so với năm 2021. Theo đó, tiêu dùng nội địa - vốn đóng góp khoảng 68-70% GDP - có khả năng phục hồi nhờ yếu tố tâm lý thị trường và thu nhập được cải thiện.
Khu vực tư nhân và FDI có cơ hội phục hồi sản xuất - kinh doanh nhờ sự hồi phục cả phía cung và phía cầu, cùng sự thích ứng của khu vực doanh nghiệp và các biện pháp hỗ trợ của Chính phủ.
Ngoài ra, kinh nghiệm, năng lực, khả năng ứng phó dịch bệnh của Chính phủ và các bộ, ngành, địa phương tiếp tục được nâng lên. Đặc biệt, khả năng chủ động sản xuất vaccine ngừa Covid-19 sẽ giúp Chính phủ sớm hoàn thành mục tiêu tiêm vaccine cho toàn dân, đưa đất nước sớm trở lại trạng thái bình thường và nền kinh tế mau chóng hồi phục.
Việc hoàn thành bao phủ vaccine vào cuối năm 2021, hoặc chậm nhất vào đầu năm 2022 là một trong những điều kiện tiên quyết để phục hồi và phát triển kinh tế.
Thứ hai, tác động trực tiếp của các gói hỗ trợ kinh tế được tăng cường. Việt Nam tăng cường khả năng phục hồi thông qua hệ thống trợ giúp xã hội mạnh mẽ và linh hoạt trên cơ sở phân bổ thêm vốn cho các chương trình trợ giúp xã hội. Đồng thời, áp dụng kỹ thuật số, để nhanh chóng xác định những người dễ bị tổn thương và mở rộng quy mô thanh toán điện tử, để tiếp cận một cách hiệu quả những người thụ hưởng đã được xác định.
Thứ ba, nhiều giải pháp được thực hiện đồng bộ. Trong bối cảnh dịch bệnh có thể kéo dài, các nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu được đặt ra là tập trung thực hiện linh hoạt, hiệu quả mục tiêu vừa phòng, chống dịch vừa phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm sức khỏe, tính mạng nhân dân và an sinh xã hội.
Ngoài ra, việc kiểm soát lạm phát, hạn chế nợ xấu phát sinh, đẩy mạnh sản xuất -kinh doanh, xuất khẩu, đẩy nhanh tiến độ giải ngân vốn đầu tư công cũng sẽ được tập trung thực hiện.
Bên cạnh đó, áp dụng các chính sách hỗ trợ phát triển tạo động lực kích thích cho cả tổng cung và tổng cầu. Đồng thời, củng cố nền tảng kinh tế vĩ mô và thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế sâu rộng hơn, tạo thêm “sức bật” cho doanh nghiệp.
Để tận dụng được những cơ hội mới nhằm phục hồi kinh tế năm 2022, cần thực hiện một số giải pháp sau.
Thứ nhất, triển khai, thực hiện tốt, an toàn chiến dịch bao phủ vaccine diện rộng. Chính phủ, các bộ, ngành và địa phương khẩn trương hoàn thành tiêm vaccine cho toàn dân trong độ tuổi tiêm chủng, trong đó ưu tiên tiêm cho lực lượng lao động thuộc khu vực doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể để hai khu vực này sớm phục hồi.
Thứ hai, kết hợp hài hòa giữa chính sách tài khóa và tiền tệ, chú trọng đến chính sách tài khóa hỗ trợ doanh nghiệp và hộ kinh doanh cá thể vượt qua khó khăn. Đồng thời, sử dụng chính sách tiền tệ đúng liều lượng, hợp lý để tháo gỡ khó khăn, thúc đẩy tăng trưởng.
Thứ ba, nâng cao năng lực giải ngân và sử dụng hiệu quả vốn đầu tư công. Theo đó, cần thực hiện đầu tư có trọng tâm, trọng điểm vào các ngành, lĩnh vực then chốt, các vùng động lực, cực tăng trưởng, các dự án lớn, quan trọng của quốc gia, dự án kết nối liên vùng.
Đặc biệt, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư công để tạo sự lan tỏa đến đầu tư tư nhân và khu vực FDI. Đồng thời, khai thác thế mạnh các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới đã ký kết nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động thương mại quốc tế, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng cường cơ hội thu hút và tận dụng dòng vốn FDI.
Thứ tư, thực hiện nhanh và hiệu quả việc cơ cấu lại nền kinh tế. Cần cơ cấu lại nội bộ từng ngành theo hướng phát huy lợi thế so sánh và tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu. Ngoài ra, cần tập trung nội lực, thúc đẩy động lực phát triển những sản phẩm có lợi thế so sánh, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng cao.
Thứ năm, chuẩn bị đầy đủ các điều kiện thúc đẩy sản xuất - kinh doanh, bảo đảm nguồn cung và lưu thông hàng hóa để giảm áp lực lạm phát.
Với các mặt hàng thiếu hụt trong ngắn hạn, cần có chính sách và giải pháp cắt giảm chi phí sản xuất, nhập khẩu kịp thời nguyên vật liệu. Ngoài ra, tăng cường thanh tra, kiểm tra, kiên quyết xử lý khi phát hiện có hành vi đầu cơ, tích trữ, thao túng giá và thực hiện các giải pháp kết nối, bảo đảm nguồn cung lao động phù hợp cho người dân.
Bên cạnh đó, chủ động cung cấp thông tin thị trường lao động, xây dựng kế hoạch, chương trình phối hợp giữa các địa phương trong việc cung ứng và tuyển dụng lao động để tạo sự kết nối, liên thông trong chuỗi cung ứng lao động giữa các địa phương.
Thứ sáu, tăng cường triển khai và thực hiện chuyển đổi số trong cải cách thể chế và thủ tục hành chính trong bối cảnh thủ tục hành chính truyền thống và ứng dụng công nghệ trong giải quyết thủ tục hành chính chưa đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của người dân, doanh nghiệp. Có rất nhiều gói hỗ trợ bị vướng về thủ tục hành chính.
Rào cản này không chỉ gây khó khăn, mà còn tạo ra sự không công bằng cho cộng đồng doanh nghiệp trong việc tiếp cận chính sách và làm méo mó môi trường kinh doanh.
Ngoài ra, cần có sự hợp tác, phối hợp giữa các cơ quan, bộ, ngành, địa phương thành lập cơ chế phân quyền nhằm tạo sự thuận lợi không chỉ trong nước, mà còn trên trường quốc tế.
Thứ bảy, tạo dựng chính sách liên thông, kết nối các chuỗi cung ứng hàng hóa, dịch vụ đi kèm với sự đồng thuận tại các chính quyền địa phương, giải quyết tình trạng tình trạng “cát cứ” - ban hành quy định không thống nhất - gây cản trở.
Để phục hồi các chuỗi cung ứng và hoạt động sản xuất, xuất khẩu, cần bảo đảm điều kiện tối đa cho lưu thông hàng hóa và đưa người lao động trở lại làm việc, tránh tình trạng ban hành không thống nhất gây cản trở. Đồng thời, bảo đảm cung ứng đầy đủ nguyên, vật liệu, năng lượng.
Về xuất nhập khẩu, cần tiếp tục theo dõi chặt chẽ tình hình dịch bệnh và trao đổi hàng hóa giữa các quốc gia để tham mưu Chính phủ các giải pháp điều hành ứng phó với các yếu tố bất lợi. Trong đó, chú trọng công tác triển khai thực hiện các Hiệp định Thương mại tự do nói chung, nhất là các FTA thế hệ mới và tổ chức xúc tiến thương mại trực tuyến, đầu tư cho khâu hậu cần (logistics).
Về thị trường trong nước, cần đẩy mạnh lưu thông phân phối hàng hóa giữa các địa phương để bảo đảm cung ứng nguồn hàng thiết yếu phục vụ nhu cầu người dân.
Ngoài ra, triển khai các chương trình kích cầu tiêu dùng trong nước, gồm: tổ chức tháng khuyến mại trên toàn quốc, các chương trình bán hàng lưu động, chương trình bình ổn thị trường. Đồng thời, tăng cường các hoạt động kết nối cung cầu, xúc tiến thương mại thị trường trong nước và đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong hoạt động lưu thông, phân phối hàng hóa.
Để kịp thời tháo gỡ khó khăn, hỗ trợ doanh nghiệp ổn định sản xuất - kinh doanh, hồi phục và tạo đà phát triển trong thời gian tới, Bộ KHĐT đã tham mưu cho Đảng, Quốc Hội, Chính phủ một số giải pháp trọng tâm thuộc thuộc Chương trình phục hồi kinh tế và phát triển kinh tế giai đoạn 2022-2023.
Thứ nhất, thực hiện hiệu quả các chính sách, giải pháp hỗ trợ tăng tính thanh khoản cho doanh nghiệp, gồm: tiếp tục giãn, hoãn thời gian nộp thuế cho doanh nghiệp; giảm thuế, phí, các khoản phải nộp; cắt giảm chi phí cho doanh nghiệp; thực hiện cấp bù lãi suất cho các doanh nghiệp trong những ngành nghề bị tác động mạnh bởi dịch bệnh Covid-19 và những nhóm ngành trọng tâm ưu tiên phát triển để tạo đà phục hồi kinh tế.
Thứ hai, hỗ trợ tái cấu trúc doanh nghiệp, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trong doanh nghiệp, nâng cao năng lực cạnh tranh bền vững thông qua đẩy mạnh triển khai hỗ trợ nâng cao năng lực cạnh tranh cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV), trọng tâm là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Đồng thời, hỗ trợ doanh nghiệp tham gia chuỗi liên kết, chuỗi giá trị, chuyển đổi số, ứng dụng khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo.
Ngoài ra, hỗ trợ tái cấu trúc lao động thu hút, đào tạo lại lao động cho doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, hỗ trợ tái cấu trúc doanh nghiệp và tài chính doanh nghiệp, quản trị rủi ro, phát triển kinh doanh bền vững hướng tới kinh tế xanh.
Thứ ba, tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, tạo sự bình đẳng và thuận lợi cho doanh nghiệp.
Chính phủ và các bộ, ngành tiếp tục rà soát, sửa đổi các quy định chồng chéo, mâu thuẫn để tháo gỡ vướng mắc cho hoạt động sản xuất - kinh doanh. Đồng thời, công khai, minh bạch các định hướng, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội, cơ chế, chính sách để định hướng cho doanh nghiệp đầu tư theo quy hoạch, kế hoạch phát triển và bảo đảm quyền lợi đầu tư, giảm rủi ro kinh doanh.
Ngoài ra, tạo điều kiện để doanh nghiệp tiếp cận bình đẳng các nguồn lực phát triển, nhất là trong việc thực hiện các dự án, công trình theo hình thức hợp tác công - tư.
Ở mọi quốc gia, sự đồng lòng, đồng thuận của người dân và doanh nghiệp đối với các quyết sách, quyết định của Chính phủ đóng vai trò quan trọng, quyết định sự thành bại của chính sách đó.
Ông cha ta đã có câu: “Tư tưởng không thông vác bình tông cũng nặng”. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc ta đã chứng minh tinh thần đoàn kết luôn là vũ khí sắc bén giúp dân tộc Việt Nam giành được chiến thắng trong mọi hoàn cảnh khó khăn nhất, và tinh thần này cũng chính là vũ khí giúp chúng ta vượt qua khó khăn của đại dịch trong 2 năm qua.
Đảng và Nhà nước ta đã có nhiều chỉ đạo kịp thời, quyết liệt về tăng cường công tác phòng, chống dịch, chăm lo đời sống, bảo vệ sức khỏe nhân dân và phát triển kinh tế - xã hội. Đồng thời ban hành nhiều chính sách hỗ trợ người dân và doanh nghiệp gặp khó khăn do ảnh hưởng bởi đại dịch.
Các cấp, các ngành, các địa phương và nhân dân cả nước đã chủ động, kịp thời thực hiện các biện pháp mạnh mẽ, quyết liệt để phòng, chống, ngăn chặn dịch bệnh, bước đầu đã thu được một số kết quả tích cực.
Cộng đồng doanh nghiệp và doanh nghiệp cũng nỗ lực thích ứng với hoàn cảnh khó khăn để duy trì sản xuất - kinh doanh và việc làm cho người lao động.
Ở những nơi, những thời điểm dịch bệnh chưa ảnh hưởng nhiều, các doanh nghiệp đã nhanh chóng ổn định sản xuất - kinh doanh và ứng dụng các giải pháp, công nghệ số để mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm. Đặc biệt là tập trung khai thác thị trường nội địa, nhanh nhạy nắm bắt cơ hội kinh doanh mới.
Điều đáng mừng là khi dịch bệnh căng thẳng, các doanh nghiệp, doanh nhân Việt Nam không chỉ có những giải pháp linh hoạt tự thích ứng, chia sẻ khó khăn, hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất, mà còn có nhiều hoạt động nhằm hỗ trợ người dân, cộng đồng, đóng góp lớn về tài chính vào Quỹ vaccine phòng, chống Covid-19 và mua sắm vật tư, trang thiết bị y tế cho các địa phương. Nhiều sáng kiến được triển khai như ATM gạo, ATM ô xy, bữa cơm miễn phí, siêu thị 0 đồng.
Điều này thể hiện tinh thần trách nhiệm, nghĩa cử cao đẹp của doanh nghiệp Việt Nam với đất nước.
Vì vậy, tôi cho rằng tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận của toàn bộ hệ thống chính trị, doanh nghiệp, người dân luôn là yếu tố then chốt quyết định mức độ hồi phục của kinh tế trong thời gian tới.
Xin cảm ơn Bộ trưởng!
Hoàng Thắng thực hiện - Đồ họa: Thu Trang