(KTSG Online) - Việt Nam là quốc gia có mức độ phát thải CO2/tăng trưởng GDP cao trong khu vực châu Á. Để đạt cam kết mức phát thải ròng carbon về 0% (Net Zero) vào năm 2050, Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp cần nhanh chóng tăng cường chuyển đổi xanh để giảm lượng carbon khoảng 78%, dù có hàng loạt thách thức phía trước.
Cùng nhập cuộc để tăng tốc cho nền kinh tế Net Zero
TS Nguyễn Quốc Việt, Phó Viện trưởng phụ trách Viện Nghiên cứu Kinh tế và chính sách (VEPR), trực thuộc Trường Đại học Kinh tế, Đại học quốc gia Hà Nội đã nêu vấn đề như trên và cũng là tham luận đầu tiên tại sự kiện Phát triển bền vững 2024 với chủ đề “Tăng tốc cho nền kinh tế Net Zero”.
Sự kiện thuộc chuỗi Diễn đàn Kinh tế Xanh thường niên do Tạp chí Kinh tế Sài Gòn tổ chức tại Khách sạn New World Saigon ngày 19-9.
Nhiều thách thức và rào cản phía trước
Được triển khai tại Việt Nam từ nhiều năm nay, hoạt động tăng trưởng xanh đã đạt được những kết quả tích cực ban đầu, nhưng cũng đặt ra nhiều thách thức trong thực tiễn. Với tham luận xoay quanh chủ đề Tăng tốc để tăng trưởng xanh, TS Nguyễn Quốc Việt chỉ ra hàng loạt thách thức với doanh nghiệp hiện nay, nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu đi châu Âu (EU) với hàng loạt chính sách xanh tạo rào cản hạn chế xuất sang thị trường này.
Đó là Chiến lược từ trang trại đến bàn ăn (Farm to Fork); Kế hoạch hành động kinh tế tuần hoàn (Circular Economy Action Plan); Chiến lược đa dạng sinh học đến năm 2030 (EU Biodiversity Strategy for 2030), và đáng chú ý gần đây là Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon (CBAM).
Theo ông Việt, tác động của CBAM tới doanh nghiệp có các mặt hàng xuất đi EU rất lớn. Bởi lẽ, doanh nghiệp sản xuất các sản phẩm thải nhiều khí carbon ra môi trường như hóa chất hữu cơ, polyme (nhựa) và hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh trên hệ thống thương mại khí thải (ETS) của EU. Nếu doanh nghiệp không lên kế hoạch giảm lượng khí thải carbon sẽ khó cạnh tranh và giữ được vị thế trên thị trường do rào cản về chi phí thuế và vấn đề uy tín. Chính sách định hướng và người tiêu dùng sẽ lựa chọn và loại bỏ dần các sản phẩm không trong danh mục xanh.
Trong khi đó, các doanh nghiệp trong khu công nghiệp thì đang rất cần giải quyết bài toán tiết kiệm năng lượng và được sở hữu “chứng chỉ xanh”, chứng minh cho lộ trình giảm phát thải, bên cạnh thực hành đầy đủ các yếu tố ESG bao gồm cả trách nhiệm xã hội và các hành động bảo vệ môi trường.
Doanh nghiệp cần sớm hành động
Trong bối cảnh cạnh tranh ngày càng gay gắt và nhiều thách thức về rào cản ở thị trường trường quốc tế, theo ông Việt, doanh nghiệp cần hành động và việc thực hành ESG (Môi trường, Xã hội, Quản trị) để hướng tới thực hiện tăng trưởng xanh. Bởi ESG là một bộ tiêu chuẩn để đo lường các yếu tố liên quan đến phát triển bền vững (PTBV) và ảnh hưởng, tác động của doanh nghiệp đến cộng đồng.
“Công bố các chỉ số và các thông tin về PTBV được xem là một trong những yếu tố cạnh tranh quan trọng giữa các doanh nghiệp. Còn khung ESG được các nhà đầu tư sử dụng để đánh giá hiệu suất của một tổ chức dựa trên các tiêu chí cụ thể”, ông Việt nói.
Thế nhưng mức độ thực hành ESG với doanh nghiệp trong nước hiện nay còn khá thấp. Dẫn báo cáo của PwC về Mức độ sẵn sàng thực hành ESG tại Việt Nam năm 2022-2023, ông Việt cho biết dù có đến 80% doanh nghiệp đã cam kết hoặc có kế hoạch cam kết ESG trong 2-4 năm tới nhưng số lượng báo cáo ESG được công bố vào năm ngoái cho thấy còn rất hạn chế. Nguyên nhân là lãnh đạo cấp cao của doanh nghiệp chưa tham gia thúc đẩy thực hành các cam kết ESG.
Theo vị này, hầu hết doanh nghiệp mới chỉ đang trong giai đoạn bắt đầu thực hành ESG. Báo cáo phát triển bền vững 2023 của KPMG cũng chỉ ra rằng thực hành ESG tại doanh nghiệp ở Việt Nam có thay đổi nhưng vẫn chưa hiệu quả. Cụ thể hơn 90% nguyên liệu đầu vào của các doanh nghiệp vẫn chưa minh chứng được tính bền vững và cũng không được phân loại theo các yêu cầu của ESG. Hay mục tiêu cắt giảm lượng carbon của Việt Nam chỉ đạt 10%, thấp hơn nhiều so với các quốc gia cùng khu vực.
Đi vào những khó khăn cụ thể, ông Việt cho rằng nhiều doanh nghiệp thiếu nhận thức và hiểu biết về thực hành ESG. “Nhiều doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp nhỏ và vừa, có thể chưa hiểu rõ về khái niệm Net Zero và các yêu cầu liên quan, dẫn đến việc triển khai không hiệu quả và không đạt được mục tiêu đề ra”, ông nói.
Chi phí đầu tư lớn cũng là một nguyên nhân. “Việc chuyển đổi sang các công nghệ và phương pháp sản xuất thân thiện với môi trường yêu cầu đầu tư lớn. Điều này có thể gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp vừa và nhỏ khi phải cân nhắc giữa lợi nhuận ngắn hạn và sự bền vững dài hạn”, ông Việt lý giải.
Mặt khác, để đạt được mục tiêu Net Zero, doanh nghiệp cần phải thu thập và phân tích dữ liệu về lượng phát thải khí nhà kính của mình. Tuy nhiên, theo ông, việc thu thập dữ liệu chính xác và đầy đủ có thể gặp khó khăn do thiếu hệ thống và công cụ phù hợp.
Một khó khăn nữa theo ông Việt là chính sách và quy định chưa rõ ràng. “Dù Chính phủ và các cơ quan liên quan đang có những bước tiến trong việc xây dựng chính sách và quy định về bảo vệ môi trường và giảm phát thải khí nhà kính, nhưng còn thiếu các quy định cụ thể và hướng dẫn chi tiết cho doanh nghiệp”, ông Việt nêu.
Trong khi đó, chính sách xanh ở các quốc gia nhập khẩu nhiều về số lượng, phức tạp về tính chất, và liên tục phát triển theo thời gian. “Không có một bộ các tiêu chuẩn xanh chung, không có lộ trình chuyển đổi xanh thống nhất cho tất cả các loại hàng hóa xuất khẩu”, ông nói.
Các đề xuất và kiến nghị
Trước những thách thức trên, ông Việt cho rằng doanh nghiệp cần chủ động tìm hiểu về chính sách chuyển đổi xanh, thường xuyên cập nhật các chính sách xanh liên quan tới sản phẩm và dịch vụ. Ông lưu ý với doanh nghiệp cần chuẩn bị và hành động từ sớm, nhất là thực hành ESG; áp dụng ESG trong quản trị. Bên cạnh đó, doanh nghiệp cũng cần tăng cường năng lực như vốn, công nghệ, kỹ thuật, nhân lực, quản trị…
Cụ thể doanh nghiệp cần đầu tư đổi mới công nghệ, nhất là công nghệ xanh, tiết kiệm năng lượng và chuyển dịch năng lượng tái tạo; liên kết với doanh nghiệp FDI để đáp ứng các chuẩn mực và vượt qua rào cản mới trong thương mại quốc tế. Việc hợp tác khoa học và công nghệ với các đơn vị nghiên cứu, chính sách và tích hợp xây dựng thương hiệu doanh nghiệp và sản phẩm với các xu thế thương mại và sản xuất toàn cầu cũng được ông lưu ý.
Với Chính phủ và các cơ quan nhà nước, ông kiến nghị cần cung cấp, cập nhật thông tin kịp thời và ban hành hướng dẫn thực hiện các chiến lược chính sách chuyển đổi xanh; hoàn thiện khung chính sách về khử carbon như thúc đẩy NLTT, tiết kiệm năng lượng; xây dựng quy định về thị trường carbon, định giá carbon, chứng chỉ xanh. nhà nước cần thiết kế và thực thi các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp thực hiện sản xuất xanh.
Ở trong nước, Chính phủ đã có chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh với các nhiệm vụ trọng tâm như giảm phát thải khí nhà kính; tăng tỷ trọng năng lượng tái tạo trong tiêu thụ năng lượng. Chiến lược gồm cả xanh hóa các ngành kinh tế; xanh hoá quá trình chuyển đổi dựa trên các nguyên tắc bình đẳng, hoà nhập và khả năng phục hồi.
Các chính sách thực thi chiến lược tăng trưởng xanh cũng được ra đời như quy định giảm phát thải khí nhà kính và bảo vệ tầng ozone; phê duyệt danh mục các cơ sở phát thải cần kiểm kê khí nhà kính; đề án về nhiệm vụ, giải pháp đột phá triển khai kết quả Hội nghị COP26 về biến đổi khí hậu; chiến lược biến đổi khí hậu giai đoạn đến năm 2050…