(KTSG Online) - Qua 15 năm phát triển, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho rằng trong bối cảnh, yêu cầu mới, cần có một nghị quyết mới, với chủ trương, chính sách, cơ chế mới phù hợp với tình hình để tạo ra không gian phát triển mới, động lực, xung lực, khí thế mới phát triển vùng Đông Nam bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam.
- Vai trò dẫn đầu của vùng kinh tế trọng điểm phía Nam
- Đi đầu trong phục hồi hậu Covid-19: Thách thức cho vùng kinh tế trọng điểm
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính ngày 9-7 đã chủ trì hội nghị tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW ngày 29/8/2005 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế-xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Đông Nam bộ và vùng Kinh tế trọng điểm phía Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 và Kết luận số 27-KL/TW ngày 2/8/2012 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 53-NQ/TW.
Việc thực hiện Nghị quyết 53 và Kết luận 27 nhằm đánh giá những kết quả đạt được, những hạn chế, bài học kinh nghiệm, đề xuất các mục tiêu, giải pháp phát triển vùng trong thời gian tới.
Hội nghị được tổ chức tại hai đầu cầu là TPHCM và Văn phòng Chính phủ, tổng kết thực hiện Nghị quyết 53 và Kết luận 27 là sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá lại chặng đường 15 năm vừa qua và xác định con đường phát triển cho vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong giai đoạn sắp tới.
Do đó, Thủ tướng đề nghị các các đại biểu bám sát nội dung Nghị quyết số 53 và Kết luận số 27 của Bộ Chính trị để đánh giá khách quan, thẳng thắn, trung thực, có phân tích, so sánh số liệu, tập trung thảo luận, đánh giá khách quan, chính xác, cụ thể những kết quả đã làm được, những tồn tại, hạn chế trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường, khoa học công nghệ, kết cấu hạ tầng, quốc phòng, an ninh; từ đó chỉ ra những điểm nghẽn, nút thắt hiện nay của Vùng và nguyên nhân, bài học kinh nghiệm.
Thủ tướng cũng đề nghị các đại biểu phát huy trí tuệ, kinh nghiệm, gắn nghiên cứu khoa học và thực tiễn tại các địa phương để thảo luận kỹ, góp ý, đề xuất các giải pháp phù hợp, khả thi, hiệu quả; xác định bối cảnh phát triển mới, những yếu tố ảnh hưởng, cơ hội và thách thức đối với sự phát triển của Vùng; đề xuất những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp thiết thực, hiệu quả; các đề xuất kiến nghị cụ thể để đáp ứng được yêu cầu phát triển vùng và phù hợp với tình hình thực tiễn.
Cần khắc phục điểm nghẽn về hậu cần
Tại sự kiện, Bộ trưởng Công Thương đã đánh giá và khuyến nghị Đông Nam bộ cần khắc phục điểm nghẽn về hậu cần (logistics), ưu tiên phát triển công nghệ cao. Theo ông, Đông Nam bộ có vị trí địa chính trị, kinh tế thuận lợi; là một trong những nước đi đầu khu vực trong việc hình thành các khuôn khổ hợp tác kinh tế song phương và đa phương với hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới. Đặc biệt, với việc Việt Nam hiện là 1 trong 20 quốc gia hàng đầu về thương mại quốc tế sẽ là những lợi thế, nền tảng quan trọng để “đầu tàu” của nền kinh tế như vùng kinh tế trọng điểm phía Nam và vùng Đông Nam bộ thúc đẩy phát triển công nghệ cao và dịch vụ logistics.
Tuy vậy, Bộ trưởng Công Thương cho rằng, vùng còn hạn chế cần khắc phục như phát triển công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp công nghệ cao còn phụ thuộc nhiều vào khu vực đầu tư nước ngoài; tỷ lệ nội địa hóa các ngành công nghệ cao còn thấp, viễn thông, điện tử chuyên dụng đạt (chỉ từ 5-15%); năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trong nước còn hạn chế. Dịch vụ logistics phát triển chưa tương xứng với tiềm năng lợi thế của vùng; chi phí logistics còn cao; sự liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất, xuất nhập khẩu. Doanh nghiệp logistics hiệu quả thấp, chưa hình thành được các trung tâm logistics quy mô lớn có vai trò chuyển hàng hóa đa phương thức của vùng. Tắc nghẽn giao thông, yếu kém về cơ sở hạ tầng và thiếu sự kết nối, hợp tác liên kết vùng là những nút thắt trong phát triển của cả vùng hiện nay.
Để khắc phục những điểm nghẽn nói trên, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên đề xuất: Vùng Đông Nam bộ cần đẩy nhanh việc xây dựng, hoàn thành Quy hoạch các tỉnh, thành phố và Quy hoạch vùng Đông Nam bộ trên cơ sở phát huy tiêm năng, lợi thế so sánh, bảo đảm cân đối vùng, miền và phù hợp với các Quy hoạch ngành của quốc gia, trong đó cần xác định rồ việc ưu phát triền công nghiệp công nghệ cao, logistics, hạ tầng là điều kiện quan trọng xu thế tất yếu để phát triển vùng và từng địa phương.
Cần thực hiện liên kết vùng trong phát triển các ngành công nghiệp, công nghệ cao và hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông. Tạo cơ chế đột phá để xây dựng các tập đoàn mạnh về logistics; Đổi mới công tác xúc tiến thương mại, đẩy mạnh phân phối hàng hóa qua nền tảng số và các kênh thương mại điện tử; đồng thời, tiếp tục khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết để đẩy mạnh xuất khẩu; phát triển các ngành công nghệ cao và dịch vụ logistics. Ngoài ra, vùng cần tiếp tục đẩy mạnh cài cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính, phân cấp nhiều hơn và xây dựng chế tài, cá thể hóa trách nhiệm cá nhân trong xử lý công việc hành chính…
Hướng đến cơ chế điều hành phát triển chung toàn vùng
Phát biểu tại hội nghị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính bày tỏ đồng tình với báo cáo trung tâm và gần 20 ý kiến đánh giá kết quả, hạn chế, bài học kinh nghiệm cũng như những phân tích, đề xuất của các đại biểu tại hội nghị; đồng thời gợi mở một số vấn đề nhằm phát triển vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trong thời gian tới.
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính khẳng định việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 53 và Kết luận số 27 thể hiện sự quan tâm đặc biệt và là chủ trương có ý nghĩa chiến lược.
Việc thực hiện Nghị quyết 53, Kết luận 27 đã huy động các nguồn lực, khai thác có hiệu quả tiềm năng và lợi thế của vùng để phát triển nhanh, ổn định và bền vững, đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, các mặt giáo dục-đào tạo, văn hóa, xã hội, y tế vào loại hàng đầu cả nước; bảo đảm ổn định chính trị và quốc phòng, an ninh vững chắc; đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân trong vùng ngày càng được nâng lên; góp phần tích cực vào sự phát triển chung của khu vực phía Nam và cả nước, là địa bàn cầu nối để hội nhập, hợp tác kinh tế có hiệu quả với các nước trong khu vực.
Thủ tướng thẳng thắn chỉ rõ mặc dù vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam có vai trò, vị trí, tầm quan trọng; dư địa phát triển lớn nhưng chưa phát triển tương xứng. Nguyên nhân do thiếu quy hoạch hiện đại; tính liên kết, phối hợp trong vùng còn lỏng lẽo, chưa chặt chẽ; chưa có cơ chế điều hành toàn vùng; thiếu cơ chế huy động nguồn lực, nhất là nguồn lực ngoài nhà nước và cơ chế để phát huy tiềm năng khác biệt, cơ hội nổi trội, lợi thế cạnh tranh của vùng.
Do đó, Thủ tướng cho rằng trong bối cảnh, yêu cầu mới, cần có một nghị quyết mới, với chủ trương, chính sách, cơ chế mới phù hợp với tình hình để tạo ra không gian phát triển mới, động lực, xung lực, khí thế mới phát triển vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam. Cần có cơ chế điều hành, tổ chức thực hiện chung, phù hợp để tạo liên kết chặt chẽ, thực chất và hiệu quả hơn; thực hiện phân cấp, phân quyền mạnh mẽ hơn; nâng cao tính tự lực, tự cường của mỗi địa phương, đơn vị; có cơ chế thu hút mọi nguồn lực vào phát triển, trong đó đẩy mạnh cơ chế hợp tác công tư, lấy đầu tư công dẫn dắt đầu tư tư.
Thủ tướng nhấn mạnh để phát triển vùng Đông Nam bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải thực hiện 3 đột phá chiến lược theo Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng gồm phát triển hạ tầng, nhất là về hạ tầng giao thông; nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, đảm bảo nguồn lao động có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu; thực hiện đột phá về thể chế, cải cách hành chính.
Thủ tướng đề nghị các bộ, ngành chủ động, cùng với các tỉnh, thành trong vùng tích cực xử lý các vướng mắc, rào cản và các vấn đề nổi lên.
“Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước đã rất rõ; các bộ, ngành, địa phương phải căn cứ chức năng, nhiệm vụ tổ chức thực hiện; đồng thời kịp thời phát hiện những vướng mắc, xác định chủ thể để giải quyết; vừa làm vừa rút kinh nghiệm, không cầu toàn, không nóng vội; mạnh dạn đề xuất cơ chế chính sách căn cứ thực tiễn; phát huy tính chủ động của các địa phương, song huy động sức mạnh tổng hợp của cả vùng," Thủ tướng nhấn mạnh.
Thủ tướng chỉ rõ trước tình hình thế giới và khu vực tiếp tục diễn biến phức tạp; kinh tế, thương mại toàn cầu phục hồi chưa vững chắc; dịch bệnh còn khó lường; biến đổi khí hậu ngày càng tiêu cực; an ninh mạng ngày càng phức tạp; thách thức về trình trạng cạn kiệt tài nguyên, già hóa dân số, phân hóa giàu nghèo ngày càng rõ...
Trong bối cảnh đó, việc thúc đẩy phát triển vùng Đông Nam Bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phải góp phần xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, chủ động hội nhập thực chất, hiệu quả.
Đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế
Từ các quan điểm, mục tiêu nêu trên, Thủ tướng Phạm Minh Chính gợi mở một số định hướng, giải pháp trọng tâm mà các địa phương, bộ, ngành cần tập trung thực hiện trong thời gian tới.
Thủ tướng đề nghị các địa phương, bộ, ngành tiếp tục nỗ lực để vùng Đông Nam bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam phát triển nhanh và bền vững. Thủ tướng đề nghị tiếp tục đẩy mạnh chuyển đổi cơ cấu kinh tế để vùng trở thành vùng dẫn dắt đổi mới mô hình tăng trưởng của cả nước, tăng cường ứng dụng khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn phù hợp với vai trò, vị trí đầu tàu về kinh tế của cả nước.
Người đứng đầu Chính phủ cho rằng phải tập trung hoàn thiện thể chế, chính sách, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, phát triển và đẩy mạnh liên kết vùng, trong đó tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đột phá chiến lược về xây dựng hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ; tập trung đầu tư các dự án hạ tầng trọng điểm, nhất là giao thông đường bộ liên kết vùng, hạ tầng số.
Thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực. Phát huy vai trò đầu tàu của vùng trong phát triển khoa học-công nghệ, đổi mới sáng tạo, tạo đột phá trong tăng năng suất, chất lượng, hiệu quả, nâng cao sức cạnh tranh của cả vùng, thúc đẩy chuyển đổi mạnh mẽ cơ cấu kinh tế vùng; phấn đấu trình độ, năng lực công nghệ, ứng dụng khoa học-công nghệ ở một số lĩnh vực có thế mạnh đạt trình độ quốc tế. Tăng cường nguồn lực đầu tư và có chính sách khuyến khích khu vực tư nhân và doanh nghiệp đầu tư cho khoa học và công nghệ và khởi nghiệp sáng tạo. Phát triển các trung tâm nghiên cứu khoa học, đổi mới sáng tạo, trí tuệ nhân tạo, chuyển đổi số, dịch vụ khoa học công nghệ tầm quốc tế.
Cũng theo Thủ tướng, phải phát triển văn hóa-xã hội, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; phát triển kinh tế-xã hội gắn với củng cố vững chắc quốc phòng, an ninh; đảm bảo an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội; tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của các cấp chính quyền.
Đồng thời, nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy chính quyền; phát huy vai trò của Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân các cấp nhất là ở các cơ sở; xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết dân tộc.
Trước mắt, Thủ tướng yêu cầu ưu tiên ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, bảo đảm các cân đối lớn của nền kinh tế; phòng, chống dịch Covid-19 hiệu quả, nhất là tập trung tiêm vaccine cho người dân; khắc phục các yếu kém trong lĩnh vực y tế, nhất là tình trạng thiếu thuốc; tập trung giải ngân vốn đầu tư công, chương trình phục hồi kinh tế-xã hội, các chương trình mục tiêu quốc gia; đẩy nhanh công tác quy hoạch theo Nghị quyết của Quốc hội; chủ động ứng phó với các vấn đề nảy sinh...
Đông Nam bộ và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam bao gồm TPHCM và các tỉnh: Đồng Nai, Bà Rịa-Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Tiền Giang. Với diện tích trên 30,5 ngàn km2 (9,2% diện tích của cả nước); dân số khoảng 21,9 triệu người (22% dân số cả nước); Đông Nam bộ đang có GRDP chiếm hơn 35% cả nước; đóng góp trên 40% tổng thu ngân sách; thu nhập bình quân đầu người cao gấp 1,58 lần, đô thị hóa gấp 1,8 lần trung bình cả nước.Kinh tế tư nhân của vùng phát triển năng động, mạnh mẽ. Số lượng doanh nghiệp thành lập mới cao nhất cả nước, tăng khoảng 81% trong giai đoạn 2011- 2020, chiếm 41,4% số lượng doanh nghiệp. Vùng là địa bàn thu hút FDI, phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất lớn nhất cả nước.Trong vùng, TPHCM là trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại lớn nhất, là động lực lôi kéo, thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước và nhất là khu vực phía Nam. Bên cạnh đó, các lĩnh vực văn hóa xã hội, khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo đạt một số kết quả nổi bật.
Tổng hợp từ TTXVN, Congthuong.vn
Tại TP. HCM nhiều công trình giao thông làm cả chục năm chưa xong thì làm sao phát triển kinh tế.