Chủ Nhật, 24/11/2024
27 C
Ho Chi Minh City

Tiếng Anh thời sự: Dễ mà khó

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Tiếng Anh thời sự: Dễ mà khó

Nguyễn Vũ

Tiếng Anh thời sự: Dễ mà khó

Châm chọc Donald Trump, bà Hillary Clinton viết: "He’s written a lot of books about business, but they all seem to end at Chapter 11". Tại sao đây là câu châm biếm?

Ảnh: cnn.com

(TBKTSG Online) – Tiếp nối đề tài “dễ mà khó” – một đề tài theo người viết là quan trọng nhất khi học tiếng Anh – tuần này chúng ta xem các câu thời sự, mới nhìn tưởng là vậy nhưng không phải vậy.

Châm chọc Donald Trump, bà Hillary Clinton viết: He’s written a lot of books about business, but they all seem to end at Chapter 11. Viết sách kinh doanh mà được 11 chương cũng là giỏi rồi, vì sao câu này lại là câu châm biếm? Đó là bởi Chapter 11 là chương 11 trong luật phá sản của Mỹ cho phép một doanh nghiệp tuyên bố phá sản để tái cấu trúc.

Viết đầy đủ thường phải có chữ bankruptcy nữa: By filing for Chapter 11 bankruptcy, the corporation is allowed to continue running while restructuring and reducing its debt. Như vậy tuyên bố phá sản theo chương 11 thì tạm thời được bảo vệ khỏi chủ nợ để gắng gượng làm ăn trả nợ còn tuyên bố phá sản để giải thể doanh nghiệp luôn thì dùng chương 7 (Chapter 7 governs the process of a liquidation bankruptcy).

Thật tình Donald Trump khi làm kinh doanh từng “forced to file for bankruptcy not once, not twice, four times”, lần nào ông ta cũng dùng chương 11 chứ không phải chương 7 nên bà Clinton mới viết như thế. Với người Mỹ Chapter 11 là phá sản nói chung chứ Chapter 7 ít ai biết.

Trong chuyên đề về người máy, tờ Economist viết: “It’s the Uber for X” has given way to “It’s X plus AI” as the default business model for startups. Câu này cũng không có từ nào khó. Give way to là nhường chỗ cho; default business model là kiểu mẫu kinh doanh mặc định, tức mô hình kinh doanh ai cũng theo…

Cái khó là hai cụm từ “Uber for X” và “X plus AI”. X ở đây là một loại hình kinh doanh bất kỳ, ví dụ giao thức ăn, cho ở chung, dịch vụ giặt đồ, chuyên chở hàng… Uber for X có nghĩa là kinh doanh loại hình đó nhưng bắt chước mô hình Uber, mô hình người có xe, giờ rảnh dùng xe để chở khách,Uber đứng giữa kết nối cung cầu bằng một ứng dụng trơn tru. Sau thành công của Uber nhiều startup bắt chước nên mới có chuyện “Uber for X”.

Nhưng sự đời đâu đơn giản, hầu hết mọi mô hình kinh doanh bắt chước Uber đều thất bại, hoặc không cất cánh được như Uber. Nên bây giờ thời thượng là “X plus AI” – tức ứng dụng trí tuệ nhân tạo (Artificial Intelligence) vào việc kinh doanh.

Trong khi đó chủ đề Brexit và toàn cầu hóa vẫn còn ám ảnh nhiều tờ báo Anh.

Tờ Economist tả: As if victory were a licence to spread hatred, anger has since lashed Britain’s streets with an outburst of racist abuse.Ở đây muốn nhấn mạnh từ licence, không phải là giấy phép mà là tự do làm theo ý muốn, có hàm ý phê phán sự quá đáng. Ví dụ: The government was criticized for giving the army too much licence. Victory ở đây là chiến thắng của phe muốn ra đi và vì thắng trong cuộc trưng cầu dân ý nên họ nghĩ họ có quyền tung hê sự giận dữ của họ ra…

Trong tuần rồi, tác giả ba cuốn sách nổi tiếng “Cú sốc tương lai – Future Shock”, “Làn sóng thứ ba – The Third Wave” và “Dịch chuyển quyền lực - Powershift”, Alvin Toffler qua đời. Tờ New York Times khi đưa tin có viết một câu: "Critics were not sure what to make of Mr. Toffler’s literary style or scholarship". What to make of là đánh giá như thế nào, lý giải ra sao. Ví dụ “What do you make of the new guy in the mailroom?” – Cậu thấy cái gã mới vào làm ở phòng văn thư như thế nào?

Cái khó ở đây là từ scholarship, thường được hiểu theo nghĩa học bổng mà thôi. Ở đây nó được dùng theo nghĩa tính học thuật.

Một câu cuối cùng để nhấn mạnh cái ý, khó không phải vì từ hay cấu trúc câu phức tạp, khó là vì các đặc điểm văn hóa, chính trị là câu sau: How everyone looks bad because Bill Clinton met with Loretta Lynch – tít này trên Washington Post thì dễ hiểu với người Mỹ có theo dõi chính trường chứ người ngoài ít ai hiểu nó nói gì.

Số là tuần trước cựu tổng thống Mỹ Bill Clinton có hẹn gặp riêng với Bộ trưởng Tư pháp đương nhiệm Loretta Lynch. Trong khi bà vợ ra tranh cử tổng thống, đang bị điều tra chuyện sử dụng email cá nhân cho việc công khi làm bộ trưởng ngoại giao mà ông chồng đi gặp như thế sẽ mang tiếng đi “chạy thuốc” cho vợ.

Bộ trưởng Tư pháp tiếng Anh là Attorney General và Bộ Tư pháp là Department of Justice. Bộ trưởng các bộ khác thì dùng từ secretary (đừng dịch là thư ký nhé). Bộ trưởng Bộ Y tế là Secretary of Health and Human Services, chẳng hạn riêng Bộ Tư pháp thì không, dùng hẳn một từ riêng.

Bài trên tờ Washington Post có một câu thuộc loại chúng ta đang quan tâm: After being interviewed by the FBI, [Hillary Clinton] told NBC’s Chuck Todd that the meeting between her husband and Lynch was innocent, adding, “Hindsight is 20/20.”

Dùng 20/20 để chỉ một thị lực bình thường (người bình thường lại nghĩ đó là thị lực tốt nhất!); hindsight là suy nghĩ sau khi sự việc đã diễn ra. “Hindsight is 20/20” là một thành ngữ mang nghĩa giờ nghĩ lại thấy nên làm thế này, nên làm thế kia, chứ lúc đó làm vậy là bình thường, có gì đâu mà ầm ĩ.

 

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới