Toàn cầu hóa và ý nghĩa đối với Việt Nam
![]() |
Cảnh người dân chen nhau mua gạo trong cơn sốt lương thực cách đây vài tháng. Giá lượn gthực tăng cao cũng là một trong những tác động của toàn cầu hóa khi Việt Nam hội nhập kinh tế thế giới - Ảnh: Lê Toàn |
(TBKTSG) - Hội nhập kinh tế thế giới đã giúp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, tạo việc làm và nâng thu nhập trong những năm gần đây. Đến nay, Việt Nam là một trong những quốc gia hưởng lợi từ toàn cầu hóa. Tuy nhiên, toàn cầu hóa có nhiều hệ quả khác ngoài thương mại và đầu tư.
Trong nhiều trường hợp thì những hệ quả này nằm ngoài chọn lựa của một quốc gia. Ví dụ, sự ấm lên của trái đất giờ đây đã được nhìn nhận là một mối nguy trước mắt và lớn hơn so với vài năm trước. Những thay đổi lớn về điều kiện khí hậu, bệnh tật và mực nước biển có thể mang lại nhiều thách thức nghiêm trọng trong một hoặc hai thập niên sắp tới.
Việt Nam thực tế là một trong những quốc gia bị đe dọa nghiêm trọng nhất trên thế giới, do khu vực ĐBSCL và một số khu vực khác hiện không cao hơn mực nước biển bao nhiêu. Chỉ cần mực nước biển dâng cao khoảng nửa mét thì sẽ có nhiều vùng đất trồng lúa bị ngập mặn và gây lụt trên diện rộng. ĐBSCL cũng bị những hoạt động phát triển ở thượng nguồn sông Mêkông đe dọa, một số con đập có thể sẽ làm thay đổi dòng chảy và lượng phù sa, khiến hoạt động canh tác nông nghiệp trở nên khó khăn hơn.
Việt Nam không thể làm gì để thay đổi những xu hướng này trừ việc nghiên cứu và chuẩn bị chuyển đổi phương pháp canh tác nông nghiệp và có lẽ nên chuyển những nông hộ hiện nay sang các hoạt động phi nông nghiệp ở những vùng ít bị đe dọa hơn. (Việc xây dựng những con đê ngăn biển có thể tác dụng với các thành phố, nhưng sẽ không hiệu quả đối với những vùng đất nông nghiệp rộng lớn).
Sự chuyển dịch lao động này dù sao cũng xảy ra, nhưng có lẽ cần chủ động đẩy nhanh nếu tốc độ thay đổi khí hậu diễn ra nhanh hơn so với dự báo hiện nay. Một cách để đối phó khía cạnh hội nhập thế giới bất đắc dĩ này là cân nhắc tác động tiềm tàng từ sự thay đổi của khí hậu lên Việt Nam và đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu để có cách thức giảm nhẹ những tác động này.
Một thí dụ khác về tác động của toàn cầu hóa là giá lương thực. Khi ngày càng có nhiều ngũ cốc và những loại cây trồng được dùng để chế biến cồn và dầu sinh học, giá lương thực sẽ gia tăng. Năm 2007, giá gạo theo đô la đã tăng 30%.
Nhà xuất khẩu lương thực có thể có lợi nhưng chi phí đối với người tiêu dùng trong nước sẽ tăng. Trung Quốc gần đây cho biết sẽ áp đặt thuế xuất khẩu lên ngũ cốc để giữ giá lương thực thành thị thấp hơn, dù rằng sẽ gây thiệt hại cho nông dân trồng ngũ cốc. Mặc dù Việt Nam sẽ có lợi từ xu hướng này do xuất khẩu lương thực, áp lực tăng giá lương thực sẽ đưa đến những hành động tương tự.
Kiều hối sẽ giúp cải thiện tình hình tiêu dùng và giáo dục cơ bản của người thân, hoặc ngược lại cũng có thể là động cơ khiến những người thân này không muốn làm việc. |
Ví dụ thứ ba về những kết nối toàn cầu không mong muốn là bệnh tật. SARS đã là một cảnh báo sớm về những gì có thể xảy ra khi xuất hiện một loại bệnh mới. Trong trường hợp SARS, thiệt hại đã được hạn chế trong vài tháng và mọi chuyện sớm trở về bình thường với tương đối ít ca tử vong.
Tuy nhiên, vẫn còn nguy cơ xuất hiện các căn bệnh khác. Các phương tiện truyền thông đề cập nhiều đến một dòng virus cúm gia cầm có nguy cơ gây đại dịch. Nếu loại H5N1 hiện nay hay một số loại virus mới khác học được cách lây lan hiệu quả từ người sang người, thì chúng có thể gây ra hàng trăm triệu cái chết, bằng hoặc qua mặt đại dịch cúm năm 1918 với 50 triệu người chết trong khi dân số thế giới chỉ bằng một phần tư hiện nay.
Tổn thất kinh tế từ thảm họa trên có thể tính bằng ngàn tỉ đô la. Phản ứng của Việt Nam đối với virus H5N1 không gây đại dịch là khá tốt, nhưng thế giới này khá nhỏ bé và nếu Indonesia, Campuchia, Trung Quốc, Bangladesh hoặc Ai Cập không chế ngự được virus này, thì có khả năng nó sẽ tiến hóa ở đó và lây lan ra khắp thế giới.
Để đối phó với mối đe dọa này đòi hỏi phải có một hệ thống y tế công mạnh và tổ chức cộng đồng chặt chẽ, kể cả dự trữ đầy đủ lương thực và thuốc men. Đây sẽ là một thách thức cho bất kỳ xã hội nào, dù giàu hay nghèo, trừ khi phát triển được loại vắc xin hay thuốc chữa trị hiệu quả, mà có thể phải mất vài năm nữa. Cũng cần có công nghệ tương tự để đối phó với chủ nghĩa khủng bố sinh học, là mối đe dọa đáng ngại trong thập niên sắp tới.
Một lĩnh vực khác mà toàn cầu hóa khó kiểm soát là di trú. Việt Nam quen với suy nghĩ cho rằng mình là nơi xuất phát, và có nhiều người Việt Nam muốn làm việc ở nước ngoài. Tuy nhiên, nhiều người ở Campuchia và Lào có thể muốn làm việc ở Việt Nam. Việc sử dụng lao động Trung Quốc ở một số dự án của Việt Nam là một bằng chứng.
Mặc dù nhiều nước ngăn cấm việc di cư, nhưng thực tế rất khó để đóng cửa biên giới hoàn toàn khi người lao động muốn làm việc và doanh nghiệp muốn thuê lao động. Luồng di dân to lớn có thể có tác động quan trọng, tích cực lẫn tiêu cực, lên số lượng lao động nội địa tăng thêm và cả xã hội.
Liệu Việt Nam sẽ ủng hộ những quy định cởi mở hơn để có nhiều người ra nước ngoài làm việc hơn, hay muốn có nhiều biện pháp kiểm soát trong nước để không cho lao động bên ngoài vào Việt Nam (có thể) làm việc, đổi lại sẽ có ít cơ hội hơn cho lao động Việt Nam ở nước ngoài? Hay lao động vẫn cứ lưu chuyển bất kể luật nói gì?
Một vấn đề khác liên quan nhưng không hoàn toàn giống là tình trạng “chảy máu chất xám”. Nhiều quốc gia thấy nhân lực trẻ có trình độ tốt nhất của mình tìm cách ra nước ngoài làm việc. Thông thường những lao động có trình độ này luôn được chào đón ở nước khác, nên khó có thể cấm đoán buộc họ phải ở lại trong nước. Nhưng khi đã không có những chính sách ràng buộc sự đi lại này, thì KHÔNG THỂ không hội nhập với thế giới và không gặp phải vấn đề này.
Vấn đề lớn đến đâu còn tùy vào nhiều biến số. Một là tỷ lệ lao động có trình độ muốn làm việc ở nước ngoài. Ở một số hòn đảo vùng Caribe, hơn ba phần tư sinh viên đi làm ở nơi khác sau khi tốt nghiệp. Ở những nước lớn hơn có thể chỉ là vài phần trăm. Tổn thất tương đối càng nhỏ, thì tác động của xu hướng di dân càng ít. Hai là ở một số nước, sau một thời gian lưu trú ở nước ngoài, dân di cư thường hồi hương mang theo họ những mối quan hệ, công nghệ và kỹ năng quý giá.
Điều này đã xảy ra ở Đài Loan và Hàn Quốc, và dường như đang diễn ra ở Trung Quốc và Ấn Độ. Nếu những người di cư tích lũy được những kỹ năng quan trọng và khả năng tiếp cận vốn và thị trường, sau đó hồi hương, thì sẽ rất tốt cho quê nhà của họ. Vấn đề thứ ba là tình trạng di cư của lao động ngành y tế, một dạng lao động đặc biệt khan hiếm.
Trong khi một số nơi quản lý tốt vấn đề này, cụ thể là Philippines nơi đào tạo số lượng y tá nhiều hơn cả yêu cầu trong nước, thì nhiều nước khác lại không có năng lực sản xuất dôi dư loại kỹ năng cần thiết này. Một cách giải quyết là đào tạo nhân viên y tế theo hướng chuyên biệt theo nhu cầu cụ thể của địa phương, thay vì cứ lặp lại cách đào tạo cũ, vốn chỉ để thỏa mãn nhu cầu của các nước giàu mà thôi. Tóm lại, tình trạng chảy máu chất xám có thể vừa xấu vừa tốt, tùy vào việc nó được quản lý như thế nào, quy mô và thành phần của nó ra sao.
Còn một vấn đề nữa đó là kiều hối. Kiều hối là tiền của người lao động ở nước ngoài gửi về quê nhà. Các ước tính mới đây cho thấy lượng kiều hối toàn cầu là khoảng 300 tỉ đô la, hơn cả lượng FDI đổ vào các nước đang phát triển và hơn hẳn tiền viện trợ.
Theo một số ước tính, lượng kiều hối về Việt Nam là 10% GDP. Có thể xem đây là suất sinh lợi từ đầu tư cho giáo dục, khi lao động di cư “hoàn trả” cho xã hội bằng cách gửi tiền về cho người thân. Và suất sinh lợi này thường khá hấp dẫn. Nếu những người bà con nhận tiền để mua hàng hóa chịu thuế nhập khẩu, thuế doanh thu hay giá trị gia tăng thì một phần kiều hối sẽ đi vào ngân sách nhà nước.
Tuy nhiên, những người ra đi thường là rất năng nổ và có khả năng cải thiện tổ chức, chứ không chỉ sản xuất ra hàng hóa. Tiền họ gửi về sẽ giúp cải thiện tình hình tiêu dùng và giáo dục cơ bản của người thân, hoặc ngược lại cũng có thể là động cơ khiến những người thân này không muốn làm việc.
Phải chăng những nước tăng trưởng chậm có lượng kiều hối cao là vì thành quả ban đầu không tốt hay do chính lượng kiều hối này gây ra? Hay do cả hai? Phân tích kinh tế về hai lĩnh vực này sẽ cho câu trả lời. Việt Nam đang tăng trưởng rất nhanh nên vấn đề phân tích này không cấp bách, mà vấn đề là làm thế nào để sử dụng kiều hối một cách hiệu quả để thúc đẩy tăng trưởng nhanh hơn hoặc đồng đều hơn.
Vấn đề cuối cùng (trong bài này) của hội nhập toàn cầu có lẽ là văn hóa. Mỗi quốc gia đều có nền văn hóa độc đáo riêng của mình. Nhưng văn hóa là một thực tế sống động, nó cho và nhận với nền văn hóa khác và cũng tự làm mới mình. Quá trình này đã diễn ra nhiều thế kỷ nay. Tuy nhiên, khả năng tiếp cận vô vàn thông tin trên mạng điện tử và sự dễ dàng đi lại ngày nay khiến cho các luồng văn hóa trở nên lớn hơn, nhanh hơn và dễ dàng hòa trộn hơn so với trước đây.
Nhiều nước đưa ra những nguyên tắc về nội dung văn hóa địa phương để nó không bị lấn át. Xã hội Việt Nam là một xã hội tương đối mở và có nhiều Việt kiều. Những chuyến viếng thăm, điện thoại, e-mail, việc tiếp cận với phim ảnh, âm nhạc và ý tưởng qua mạng điện tử, tất cả sẽ khiến cho việc xác định đâu là “Việt Nam đích thực”, đâu là vay mượn trở nên khó khăn.
Đây không phải là vấn đề gì to lớn đối với một nền văn hóa sống động, sẵn sàng thích nghi với những ý tưởng phù hợp và chối bỏ những ý tưởng lệch lạc từ bên ngoài. Tuy nhiên, nó có thể tạo ra một cảm giác bất an và thiếu tự tin về văn hóa.
Có lẽ, chúng ta đang hướng đến một nền văn hóa toàn cầu hoặc chúng ta sẽ bấu víu lấy những biểu trưng và thực tiễn văn hóa của địa phương mình. Nếu văn hóa quốc gia là điều kiện tiên quyết cho bản sắc quốc gia, thì có thể cần phải cân đối giữa sự mở cửa chọn lọc với một nền văn hóa địa phương sống động.
Điểm cốt lõi của bài viết này là nêu ra nhiều lĩnh vực mà ở đó hội nhập toàn cầu không còn là vấn đề chọn lựa, và chúng sẽ có những tác động quan trọng ở đâu trong nước. Cách giải quyết không phải là cố gắng thu mình né tránh mà là ý thức được những vấn đề tiềm tàng, để đưa ra những cách thức ứng phó phù hợp. Thông thường các vấn đề này khó tránh khỏi dù muốn hay không. Nhưng khi có thể tránh khỏi ở một chừng mực nào đó thì nên đối mặt và ứng phó với nó hơn là theo chủ nghĩa cô lập.
Một đất nước với truyền thống hiếu học, khả năng khuyến khích những tranh luận thẳng thắn các vấn đề này, cũng như khả năng phối hợp những bài học từ tranh luận và kinh nghiệm thực tiễn vào chính sách sẽ có khả năng giải quyết các vấn đề này tốt hơn một quốc gia không có các đặc tính trên. Sự ổn định trong hội nhập toàn cầu giống như sự thăng bằng của một người đang chạy xe đạp trên đường, chứ không phải đang sụp vào vũng lầy.
DAVID DAPICE (Quý Tâm biên dịch)