Thứ hai, 18/11/2024
35.6 C
Ho Chi Minh City

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: thế nào là đủ?

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp: thế nào là đủ?

Nhân viên Công ty DHL tham gia làm vệ sinh và sửa chữa một trường học ở Bình Dương. Đây là một hoạt động hoàn toàn mang tính tự nguyện của doanh nghiệp. Ảnh: Lê Toàn.

(TBKTSG) - Việt Nam cam kết thực hiện các mục tiêu thiên niên kỷ cho thấy chúng ta không hy sinh chất lượng sống của người dân vì mục tiêu tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn. Nhưng, điều đó đòi hỏi hệ thống quy định pháp luật phải có độ chính xác cao.

CSR: mô hình kim tự tháp của A. Carroll

Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (CSR) hiện nay đã phổ biến nhưng vẫn còn nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm, nội dung và phạm vi của CSR. Trong số đó, mô hình “kim tự tháp” của A. Carroll (1999) có tính toàn diện và được sử dụng rộng rãi nhất. Theo đó, CSR bao gồm trách nhiệm kinh tế, pháp lý, đạo đức và từ thiện.        

(i) Trách nhiệm kinh tế, thể hiện qua hiệu quả và tăng trưởng, là điều kiện tiên quyết bởi doanh nghiệp được thành lập trước hết từ động cơ tìm kiếm lợi nhuận của doanh nhân. Hơn thế, doanh nghiệp là các tế bào kinh tế căn bản của xã hội. Vì vậy, chức năng kinh doanh luôn phải được đặt lên hàng đầu. Các trách nhiệm còn lại đều phải dựa trên ý thức trách nhiệm kinh tế của doanh nghiệp.

(ii) Trách nhiệm tuân thủ pháp luật chính là một phần của bản “khế ước” giữa doanh nghiệp và xã hội.

Nhà nước có trách nhiệm “mã hóa” các quy tắc xã hội, đạo đức vào văn bản luật, để doanh nghiệp theo đuổi mục tiêu kinh tế trong khuôn khổ đó một cách công bằng và đáp ứng được các chuẩn mực và giá trị cơ bản mà xã hội mong đợi ở họ. Trách nhiệm kinh tế và pháp lý là hai bộ phận cơ bản, không thể thiếu của CSR.

(iii) Trách nhiệm đạo đức là những quy tắc, giá trị được xã hội chấp nhận nhưng chưa được “mã hóa” vào văn bản luật.

Thông thường, luật pháp chỉ có thể đi sau để phản ánh các thay đổi trong các quy tắc ứng xử xã hội vốn luôn mới. Hơn nữa, trong đạo đức xã hội luôn tồn tại những khoảng “xám”, đúng - sai không rõ ràng; mà khi các cuộc tranh luận trong xã hội chưa ngã ngũ, chúng chưa thể được cụ thể hóa vào luật.

Cho nên, tuân thủ pháp luật chỉ được coi là sự đáp ứng những đòi hỏi, chuẩn mực tối thiểu mà xã hội đặt ra. Doanh nghiệp còn cần phải thực hiện cả các cam kết ngoài luật. Trách nhiệm đạo đức là tự nguyện, nhưng lại chính là trung tâm của CSR.

(iv) Trách nhiệm từ thiện là những hành vi của doanh nghiệp vượt ra ngoài sự trông đợi của xã hội, như quyên góp ủng hộ cho người yếu thế, tài trợ học bổng, đóng góp cho các dự án cộng đồng… Điểm khác biệt giữa trách nhiệm từ thiện và đạo đức là doanh nghiệp hoàn toàn tự nguyện. Nếu họ không thực hiện CSR đến mức độ này, họ vẫn được coi là đáp ứng đủ các chuẩn mực mà xã hội trông đợi.

Trước hết, có thể thấy mô hình trên có tính toàn diện và khả thi cao. Thứ hai, việc đặt trách nhiệm kinh tế làm nền tảng không những thỏa mãn cả nhu cầu về lý thuyết “đại diện” trong quản trị công ty, mà còn giải quyết được những hoài nghi về tính trung thực trong các chương trình CSR của doanh nghiệp. Từ đó, vấn đề “vì mình” hay “vì người” không còn được đặt ra nữa, bởi hai mục đích đó là không thể tách rời. Thứ ba, ranh giới giữa các tầng trong “kim tự tháp” luôn ảnh hưởng lẫn nhau. Việc tuân thủ quy định pháp luật chắc chắn đưa đến các chi phí kinh tế cho doanh nghiệp. Và quy tắc đạo đức xã hội ngoài luật luôn mở rộng (theo trình độ phát triển của xã hội), tạo áp lực lên hệ thống pháp luật, bắt buộc các nhà làm luật phải luôn bám sát thực tiễn xã hội. Thứ tư, mối quan hệ giữa từ thiện và trách nhiệm xã hội được làm rõ. Trách nhiệm từ thiện chỉ là “bề nổi của tảng băng chìm” CSR. Thứ năm, quản trị lợi ích của các bên có liên quan được đặt ra như một nội dung then chốt trong quản trị doanh nghiệp.

CSR ở Việt Nam

Ở đây, chúng tôi muốn đề cập và phân tích một số vấn đề mà Việt Nam đang gặp phải.

(i) Tăng trưởng nhanh và môi trường sinh thái luôn là hai mặt khác nhau của các nền kinh tế đang phát triển. Sau quá trình tăng trưởng kinh tế nhanh, nhiều nước đã phải trả giá về môi trường. Việt Nam cam kết thực hiện các mục tiêu Thiên niên kỷ cho thấy chúng ta không hy sinh chất lượng sống của người dân vì mục tiêu tăng trưởng nhanh trong ngắn hạn.

Nhưng, điều đó đòi hỏi hệ thống quy định pháp luật phải có độ chính xác cao. Luật pháp phải làm sao không thừa (không tạo chi phí không đáng có cho doanh nghiệp) vừa không thiếu để bảo vệ lợi ích công cộng ở mức cần thiết. Qua các vụ thực phẩm nhiễm độc (nước tương, sữa), chúng ta thấy cơ quan nhà nước thường ở thế bị động và văn bản luật không bám sát thực tiễn.

(ii) Ngay cả khi quy định pháp luật có đủ, thì tính hiệu lực quá thấp. Nhiều vụ ô nhiễm môi trường diễn ra hơn chục năm không bị phát hiện và xử lý, cho thấy cơ quan quản lý không làm hết trách nhiệm của mình. Có lẽ đây là vấn đề mấu chốt, quan trọng nhất chúng ta phải giải quyết.

(iii) Ý thức cộng đồng và ý thức bảo vệ quyền lợi của người dân rất thấp. Có thể nói, đứng trước các doanh nghiệp lớn, người dân địa phương cảm thấy đơn lẻ, yếu thế, thiếu sự hỗ trợ của chính quyền. Cơ chế khiếu kiện dân sự ở nước ta hầu như rất ít được sử dụng.

(iv) Việt Nam hầu như không có các thiết chế đại diện, trung gian, đó là các tổ chức phi chính phủ (NGOs), hiệp hội, nhóm lợi ích đóng vai trò rất lớn ở các nước phát triển. Cấu trúc trung gian tạo ra chi phí đại diện, nhưng xét tổng thể, nó giúp giảm thiểu chi phí để những người dân, cộng đồng đơn lẻ đạt các mục đích xã hội của mình. Vai trò của các hiệp hội ở nước ta rất thấp. Hầu như không có sự hiện diện của hiệp hội người tiêu dùng trong các vụ việc ô nhiễm thực phẩm, môi trường vừa qua.

(v) Dư luận có chiều hướng đánh đồng hoạt động từ thiện với trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp. Như đã đề cập ở trên, từ thiện chỉ là một phần nhỏ trong CSR. Một doanh nghiệp đóng góp một tỉ đồng từ thiện, nhưng có thể gây ô nhiễm với chi phí nhiều tỉ đồng hơn thế. Cần phải có một cách tiếp cận toàn diện về CSR.

Kiến nghị các giải pháp

- Một là, nâng cao chất lượng các quy định pháp luật bằng cách áp dụng RIA (đánh giá tác động của văn bản luật) trong quá trình lập quy. RIA giúp xác định giải pháp lập quy có phải là giải pháp cần thiết, hợp lý. Nếu có, RIA sẽ tìm ra mức độ lập quy phù hợp nhất để đạt được mục tiêu với chi phí thấp nhất cho doanh nghiệp. Một khi văn bản luật có tính chính xác cao, hiệu lực của các văn bản cũng sẽ được cải thiện đáng kể. Bên cạnh đó, nhất thiết các cơ quan nhà nước cần phải tăng cường trách nhiệm thực thi luật trong lĩnh vực của mình.

- Hai là, cách thức xây dựng các hiệp hội cần được đổi mới. Việc tận dụng kinh nghiệm và kỹ năng của các quan chức là cần thiết, nhưng lãnh đạo các hiệp hội nên là những người gắn bó với thành viên từ cơ sở. Có như vậy, họ mới đấu tranh một cách “có lửa” cho quyền lợi của thành viên hiệp hội.

- Ba là, thực hiện các chương trình truyền thông, quảng cáo phi lợi nhuận. Điều này rất phổ biến ở các nước phát triển, và hiện nay được áp dụng cả ở các nước trong khu vực như Singapore, Trung Quốc. Các đài truyền hình, truyền thanh ở nước ta vẫn thuộc sở hữu nhà nước, do đó, Chính phủ có thể chỉ đạo các đài dành một tỷ lệ nhất định trong thời lượng quảng cáo hàng ngày miễn phí cho các mục tiêu công cộng.

- Bốn là, địa vị của người đóng thuế cần được nâng cao. Vinh dự đi đôi với trách nhiệm. Cần có những bảng xếp hạng các doanh nghiệp nộp thuế thu nhập doanh nghiệp cao nhất, các cá nhân nộp thuế thu nhập cá nhân nhiều nhất. Họ xứng đáng nhận được sự vinh danh của xã hội. 

- Năm là, Nhà nước tập trung hoàn thiện luật và tính hiệu lực trong việc thực thi luật. Các trách nhiệm ngoài luật (đạo đức, từ thiện), cơ chế tự nguyện cần được khuyến khích vì đó là sự tương tác giữa doanh nghiệp và xã hội. Nhà nước chỉ nên gián tiếp tác động thông qua các cơ chế như NGOs, hiệp hội, mạng lưới cộng đồng, giáo dục, nâng cao ý thức người dân.

ThS. LƯU MINH ĐỨC - Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương

(*) Xem từ TBKTSG số 44, ngày 23-10-2008.

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới