Trung Quốc: thủ lợi từ luật thương mại quốc tế
Mỹ Hạnh
![]() |
Mặc dù Trung Quốc biết việc kìm giá đồng nhân dân tệ là gây hại cho các nước khác nhưng vẫn ra sức bảo vệ chính sách kinh tế của mình. Ảnh: REUTERS. |
(TBKTSG) - Cùng với sự gia tăng xuất khẩu ngay cả khi các nền kinh tế chủ chốt khác đang còn nỗ lực hồi phục sau khủng hoảng, ngày càng có nhiều bằng chứng cho thấy Bắc Kinh đã khéo léo sử dụng những mâu thuẫn trong luật thương mại quốc tế để thúc đẩy kinh tế và gây bất lợi cho các nước khác, kể cả Mỹ.
Chiến lược hai mặt
Tìm cách duy trì sự thống trị trong lĩnh vực xuất khẩu, Trung Quốc đã thực hiện một nỗ lực hai mặt: vừa chống chủ nghĩa bảo hộ ở các đối tác thương mại, vừa kìm giá đồng tiền (đồng nhân dân tệ) dưới mức giá trị thực.Trung Quốc đang quyết liệt bảo vệ chính sách kinh tế của mình. Hôm Chủ nhật (14-3), Thủ tướng Ôn Gia Bảo đã chỉ trích áp lực quốc tế đối với Trung Quốc, đòi để cho đồng tiền của nước này tăng giá, và gọi đó là “vô trách nhiệm”. Ông ta nói rằng đồng nhân dân tệ sẽ được giữ “về cơ bản là ổn định”.
Để tối đa hóa lợi thế, Bắc Kinh đang khai thác sự khác nhau cơ bản giữa hai cơ quan quốc tế chủ chốt là Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) và Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF). WTO áp đặt các hình phạt nghiêm khắc, có tính bắt buộc, đối với các quốc gia cản trở thương mại, còn IMF hoạt động như một cơ quan giám sát chính sách kinh tế toàn cầu nhưng lại không có chút quyền lực nào đối với các nước như Trung Quốc vì các nước này không vay mượn tiền của IMF.
Năm ngoái, thặng dư thương mại của Trung Quốc trong buôn bán với phần còn lại của thế giới đạt 198 tỉ đô la Mỹ, xuất khẩu sang Mỹ nhiều hơn bốn lần so với nhập khẩu từ Mỹ. Tuy vậy trong 12 tháng qua, Trung Quốc đã khởi kiện lên tòa án thương mại WTO ở Geneva nhiều vụ kiện hơn bất kỳ nước nào khác.
Theo ba chuyên gia có kiến thức sâu về hành động của Trung Quốc, nước này đã ra sức ngăn cản việc phát hành một loạt báo cáo của IMF từ năm 2007 đến nay; trong đó ghi lại những cách thức mà Trung Quốc sử dụng để hạ giá đồng nhân dân tệ một cách cơ bản.
Trung Quốc đã mua đô la Mỹ và các ngoại tệ khác, trị giá vài trăm tỉ đô la Mỹ mỗi năm bằng cách bán ra nhiều nhân dân tệ, làm cho giá trị của đồng tiền này giảm mạnh. Chính sách can thiệp đó đã giúp xuất khẩu của Trung Quốc trong tháng 2-2010 tăng 46% so với cùng kỳ năm trước.
Khi đồng tiền của một nước nào đó được định giá thấp hơn giá trị thực thì hàng xuất khẩu của nước ấy trở nên rẻ hơn trên thị trường nước ngoài trong khi hàng nhập khẩu trở nên đắt đỏ. Điều này làm cho thặng dư thương mại tăng, tỷ lệ thất nghiệp của nước đó giảm nhưng đồng thời làm tăng tình trạng thất nghiệp ở các đối tác thương mại. Như vậy, suy cho cùng, kìm giá đồng tiền là biện pháp bảo hộ thương mại hiệu quả nhất.
Bất cập của luật lệ thương mại quốc tế
Sự sụp đổ của thương mại thế giới trong thập niên 1930 tập trung ở hai tai họa có liên quan mật thiết với nhau: chủ nghĩa bảo hộ và sự phá giá đồng tiền để làm nghèo nước khác (beggar-thy-neighbour currency devaluations). Sau Chiến tranh Thế giới thứ hai, các nhà lãnh đạo thế giới đã lập ra hai định chế, WTO và IMF, để giảm thiểu nguy cơ của một cuộc đại suy thoái khác. Trong một thời gian dài, WTO (và tiền thân của nó là GATT) chỉ có các ủy ban trọng tài yếu ớt mà phán quyết của chúng dễ dàng bị các nước “bị cáo” ngăn cản. Nhưng từ năm 1995 WTO đã xây dựng những tòa án thương mại hùng mạnh có khả năng áp đặt những vụ cấm vận trị giá hàng tỉ đô la Mỹ.
IMF thì không có quyền lực như vậy. Cơ quan này yêu cầu các nước thành viên công bố những tài liệu và thông tin - trừ thông tin về biến động thị trường, theo những kỳ hạn nhất định. Nhưng theo luật, một nước thành viên có quyền quyết định công bố hay giữ lại những báo cáo nào đó.
Nhiều nhà kinh tế học hàn lâm nổi tiếng đã thấy sự mâu thuẫn cơ bản trong hệ thống giám sát thương mại và tiền tệ toàn cầu. Giáo sư Jagdish Bhagwati thuộc Đại học Columbia nói: “Nhiều người trong chúng ta muốn thấy các cam kết theo kiểu WTO - không tuân thủ sẽ bị trừng phạt - được áp dụng ở các cơ quan quốc tế khác như IMF”. Tuy nhiên đó cũng chỉ là ước vọng.
Trung Quốc gia nhập WTO vào cuối năm 2001 và trong bảy năm đầu tiên tham gia tổ chức này Bắc Kinh chỉ khởi kiện 3 vụ. Nhưng trong thời gian gần đây Trung Quốc khá hăng hái trong việc kiện tụng các nước khác, năm ngoái WTO thụ lý 15 vụ kiện thương mại thì trong đó có đến 4 vụ Trung Quốc đứng đơn kiện, gồm 2 vụ kiện Mỹ liên quan tới lốp (vỏ) xe và thịt gia cầm, 2 vụ kiện Liên minh châu Âu về đai buộc thép và gia cầm.
Ở IMF, Trung Quốc đã cho phép cơ quan này công bố báo cáo của mình cho đến giữa năm 2007 - thời điểm mà ban điều hành quỹ này quyết định rằng các bản báo cáo phải quan tâm nhiều hơn tới chính sách tiền tệ. Từ đó Bắc Kinh lặng lẽ ngăn cản việc công bố các báo cáo về chính sách của họ mà không đưa ra lý do cụ thể nào. Một nhân vật đã xem xét các báo cáo gần nhất mùa hè vừa qua tiết lộ rằng, các chuyên gia IMF đã kết luận rằng đồng nhân dân tệ “bị định giá thấp hơn giá trị thực”. Theo IMF, một đồng tiền bị coi là “định giá thấp hơn giá trị thực” khi giá trị của nó thấp hơn 20% so với giá thị trường.
Tình huống khó xử của Mỹ
Thứ Năm tuần trước, Tổng thống Mỹ Obama đã kêu gọi Trung Quốc đưa ra “một tỷ giá hối đoái hướng tới thị trường hơn”. Nhưng phản ứng đầy thách thức sau đó của Trung Quốc đã đẩy Chính phủ Mỹ vào một tình thế khó xử. Nếu Bắc Kinh tiếp tục duy trì chính sách kìm giá đồng nhân dân tệ, thặng dư thương mại sẽ tiếp tục nghiêng về phía Trung Quốc và kinh tế Mỹ sẽ khó mà phục hồi nổi, tình trạng thất nghiệp - hiện ở mức hai con số - sẽ khó mà cải thiện được. Còn nếu Trung Quốc bị phát hiện là thao túng đồng tiền, Chính phủ Mỹ bị buộc phải có hành động thích hợp và đây có thể là một thách thức kinh tế và chính trị nghiêm trọng.
Trung Quốc hiện là người mua nhiều nhất trái phiếu của Bộ Tài chính Mỹ vào lúc Mỹ bị thâm hụt ngân sách kỷ lục và cần Trung Quốc tiếp tục mua trái phiếu để tài trợ các khoản vay của Mỹ. Nhưng Bộ Tài chính Mỹ cũng đang đối mặt với thời hạn cuối cùng là vào ngày 15-4 sắp tới bộ này phải quyết định xem có nên nêu tên Trung Quốc như là nước thao túng tỷ giá đồng bạc hay không. Nếu Trung Quốc bị coi là thao túng đồng tiền, điều đó có thể sẽ khuyến khích các thành viên Quốc hội Mỹ - hiện thảo luận có nên ngăn cản hàng xuất khẩu của Trung Quốc tràn vào Mỹ hay không. Nếu Quốc hội Mỹ ban hành luật hạn chế hàng nhập khẩu từ Trung Quốc, chắc chắn Bắc Kinh sẽ chỉ trích sự trả đũa đó là chủ nghĩa bảo hộ, làm trầm trọng thêm mối quan hệ vốn đã căng thẳng giữa hai nước.Trung Quốc đã bắt đầu mô tả sự can thiệp vào tỷ giá như là một biện pháp kích cầu. Nhưng không giống như các khoản chi tiêu kích cầu của chính phủ ở Mỹ và các nước khác, sự can thiệp vào tỷ giá đồng tiền không làm gia tăng nhu cầu tiêu thụ toàn cầu mà chuyển dịch nhu cầu đó từ các nước khác về Trung Quốc.
Chỉ dấu chính cho thấy sự can thiệp của một nước vào thị trường tiền tệ là mức độ dự trữ ngoại tệ. Từ tháng 7-2008, Trung Quốc đã chặn đứng đà tăng giá dần dần của đồng nhân dân tệ so với đô la Mỹ và “neo” đồng tiền vào đồng đô la Mỹ đang suy yếu do khủng hoảng tài chính. Từ 30-6-2008 đến 31-12-2009, dự trữ ngoại tệ của Trung Quốc tăng thêm 590 tỉ đô la Mỹ. Chỉ một phần nhỏ của sự gia tăng này phản ánh lãi suất trái phiếu, sự tăng giá chứng khoán và sự dao động tiền tệ.
Chưa biết vào tháng 4 tới, Bộ Tài chính Mỹ sẽ nói gì về tình trạng này.
(Theo New York Times)