(KTSG Online) - Tỷ lệ sinh của Hàn Quốc vẫn giảm với tốc độ nhanh nhất thế giới dù chính phủ nước này đã chi 280 nghìn tỉ won (212 tỉ đô la Mỹ) trong 15 năm để chặn đứng đà suy giảm. Tỷ lệ sinh giảm khiến nhiều ngành nghề thiếu lao động. Vì vậy, Hàn Quốc phải hướng ra nước ngoài để tìm kiếm nguồn lao động bổ sung.
- Lao động sang Hàn Quốc làm việc có thể lưu trú đến 10 năm
- Chính phủ Hàn Quốc đề xuất tuần làm việc 69 giờ, công đoàn phản đối
Nhu cầu thuê lao động nước ngoài của Hàn Quốc trở nên cấp bách một phần là do triển vọng tăng trưởng của nước này đang bị đe dọa nghiêm trọng khi dân số giảm. Theo dự báo của ngân hàng Goldman Sachs, đến năm 2050, Hàn Quốc sẽ rơi khỏi nhóm 15 nền kinh tế lớn nhất thế giới và quy mô kinh tế sẽ đứng sau hai nước đông dân Indonesia và Nigeria.
Hiện nay, dân số Hàn Quốc khoảng hơn 51 triệu người nhưng có thể giảm chỉ còn 37,66 triệu người vào năm 2070. Một viễn cảnh bi quan là đến năm 2750, Hàn Quốc có thể không còn tồn tại với tư cách một quốc gia nếu tỷ lệ sinh tiếp tục giảm như tốc độ như hiện tại.
Dù đã chi hàng trăm tỉ đô la để đảo ngược tình hình nhưng tỷ lệ sinh của Hàn Quốc vẫn tiếp tục giảm. Số trẻ trung bình mà một phụ nữ Hàn Quốc sinh đạt mức thấp kỷ lục của thế giới là 0,78 trong năm 2022. Tại Seoul, tỷ lệ này chỉ là 0,59.
Hàn Quốc là quê hương của một số tập đoàn hùng mạnh như Samsung, Hyundai, LG nhưng 99% công ty trong nước có quy mô tương đối nhỏ. Với mức trả lương còn thấp so với các nước phát triển khác và tính chất nặng nhọc của công việc như ngành nông nghiệp, chăn nuôi, thủy sản và các ngành sản xuất khác đã không thu hút giới trẻ Hàn Quốc. Do vậy, những ngành này đang rất thiếu thốn nhân lực, buộc chính phủ phải tìm kiếm lao động nhập cư.
Năm 1990, Hàn Quốc có khoảng 49.000 công dân nước ngoài cư trú dài hạn. Đến năm 2019, số lượng công dân nước ngoài, bao gồm cả những người lưu trú dưới 90 ngày tăng lên 2,52 triệu, chiếm 4,9% tổng dân số 51 triệu người của nước này.
Khoảng 40% số người nước ngoài kể trên là người Trung Quốc. Người Việt Nam là nhóm người nước ngoài lớn thứ hai, tiếp theo là người Thái Lan.
Năm 2004, Hàn Quốc bắt đầu triển khai chương trình tiếp nhận lao động nước ngoài tay nghề thấp. Theo chương trình này, chính phủ kiểm soát toàn bộ quá trình tuyển dụng, bố trí công việc, sau đó trả người lao động về nước khi hết thời hạn làm việc. Chương trình bao phủ một loạt các lĩnh vực gồm sản xuất, xây dựng, nông nghiệp, chăn nuôi, dịch vụ và thủy sản.
Trong một nỗ lực mở cửa thị trường lao động, gần đây, Hàn Quốc đã triển khai nhiều biện pháp cách khác nhau để giúp người lao động nước ngoài trở thành thường trú nhân.
Hiện nay, lao động nước ngoài có thể cư trú hợp pháp tại Hàn Quốc hoặc trở thường trú nhân bằng cách kết hôn với người Hàn Quốc. Số lượng các cuộc kết hôn giữa công nhân nước ngoài và người Hàn Quốc tăng mạnh kể từ năm 2000. Hiện nay, 10% cuộc hôn nhân ở Hàn Quốc có cô dâu hoặc chú rể là người nước ngoài, chủ yếu là người Trung Quốc hoặc người Việt Nam.
Sau khi được nhập tịch nhờ kết hôn với người Hàn Quốc, người nước ngoài có thể tái hôn (sau khi ly hôn hoặc người chồng/vợ Hàn Quốc qua đời) và người phối ngẫu mới của những người này sẽ tự động trở thành công dân Hàn Quốc. Theo một nguồn tin, số lượng nam giới từ Đông Nam Á trở thành công dân Hàn Quốc theo cách này đang tăng lên đáng kể.
Ikumi Haruki, giáo sư của Đại học Seigakuin (Nhật Bản), tác giả của một cuốn sách về chính sách nhập cư của Hàn Quốc, cho biết chính sách hỗ trợ rộng rãi của chính phủ Hàn Quốc có thể là chìa khóa để tăng số lượng lao động nước ngoài trở thành thường trú nhân hoặc biến Hàn Quốc thành nơi cư trú của những người này.
“Hàn Quốc đang cung cấp các khóa học tiếng Hàn miễn phí tại 319 địa điểm trên cả nước”, Haruki nói.
Kể từ thập niên năm 2000, Hàn Quốc đã phát triển nhiều chương trình khác nhau để hỗ trợ cư dân nước ngoài, chẳng hạn như dịch vụ tư vấn và giáo dục ngôn ngữ. Các trung tâm hỗ trợ được thành lập trên khắp đất nước, cung cấp các bài học tiếng Hàn qua bộ sách giáo khoa do chính phủ biên soạn.
Tuy nhiên, một thách thức hiện nay là việc phân bổ ngân sách lớn để hỗ trợ người nhập cư và con cái của các cặp đôi có vợ hoặc chồng là người nhập cư là nguồn cơn bất bình của công chúng. Bên cạnh đó, dù nhận được mức lương tương đối cao so với ở quê nhà nhưng lao động nước ngoài ở Hàn Quốc thường phải làm việc nhiều giờ và đối mặt với sự phân biệt đối xử.
Tuy nhiên, nước này vẫn là một nơi làm việc hấp dẫn đối với thanh niên ở Đông Nam Á, một phần nhờ vào sự quen thuộc của họ với các công ty và sản phẩm của Hàn Quốc. Sức hấp dẫn toàn cầu của K-pop và phim ảnh Hàn Quốc cũng góp phần thu hút giới trẻ châu Á đến với đất nước này.
Theo các nhà quan sát, dù còn những khiếm khuyết nhưng chính sách lao động nước ngoài của Hàn Quốc cung cấp cho các nước nước giàu có dân số già khác như Nhật Bản bài học quý giá về cách giảm bớt tác động kinh tế của tỷ lệ sinh giảm.
Theo Nikkei Asia