Uber và Grab nộp thuế gì cho Việt Nam?
Trương Trọng Hiếu
(TBKTSG) - Về hoạt động của Uber hay Grab tại Việt Nam, trước hết có thể khẳng định đây là hoạt động cung ứng dịch vụ xuyên biên giới. Phương thức này đã được Việt Nam ghi nhận khi gia nhập WTO và cũng đã được nhắc đến trong Luật Thương mại hiện hành.
Sở dĩ nói Uber, Grab đang sử dụng phương thức kinh doanh này là vì bên sở hữu ứng dụng và cung ứng dịch vụ tại Việt Nam là Uber, Grab nước ngoài chứ không phải Uber, Grab Việt Nam, những pháp nhân độc lập. Nhưng về nguyên tắc, và theo quy định của pháp luật Việt Nam, họ vẫn phải chịu thuế đối với khoản doanh thu phát sinh từ hoạt động kinh doanh tại Việt Nam lẫn giá trị gia tăng của sản phẩm dịch vụ đó. Đó là thuế thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và thuế VAT, được gọi chung là thuế nhà thầu.
Việc tính thuế của cả hai khoản thuế trên đều được thực hiện dựa theo tỷ lệ phần trăm (%) trên doanh thu mà doanh nghiệp được hưởng. Các ý kiến so sánh con số tỷ lệ phần trăm, đơn cử 5% hay 3%, với thuế suất áp dụng bằng phương pháp thông thường hiện nay để nói rằng Uber hay Grab chịu thuế ít hơn doanh nghiệp hoạt động cùng ngành trong nước là không chính xác.
Thông thường, nghĩa vụ nộp thuế nhà thầu được thực hiện bởi bên Việt Nam, là bên đã sử dụng sản phẩm và dịch vụ làm phát sinh thu nhập cho bên nước ngoài. Việc thực hiện nghĩa vụ thuế ít ra cũng được kiểm soát khi phía Việt Nam tiến hành giao dịch thanh toán (qua ngân hàng) cho đối tác nước ngoài và bởi các quy định về kiểm soát ngoại tệ. Trong trường hợp của Uber và Grab, việc kiểm soát nhóm đối tượng này không hề dễ nếu như không phải chính các doanh nghiệp đó chuyển thông tin ngược lại. Nếu không, chính phương thức thanh toán trực tuyến đã vượt bức tường lửa của cơ quan thuế để chuyển thẳng tiền của hành khách hay bên vận chuyển ở Việt Nam (trường hợp thanh toán tiền mặt thì bên vận chuyển phải ứng trước) về... tài khoản nước ngoài. Đến chừng nào cơ quan thuế chưa nắm được dòng tiền trực tuyến này thì họ vẫn còn tiếp tục bị bỏ lại phía sau.
Rõ ràng, rất khó để nắm hết lượng khách hàng của Uber hay Grab ở Việt Nam để yêu cầu lực lượng này kê khai và nộp thuế thay. Việc không cho phép Uber Việt Nam đăng ký cung ứng dịch vụ vận tải trước đây có thể tạo rủi ro là vì vậy. May thay, quyết định cho phép Uber tham gia hoạt động thí điểm “taxi công nghệ” từ tháng 4-2017 của Bộ Giao thông Vận tải đã tạo tiền đề bước đầu để bảo toàn cơ sở thuế.
Cụ thể, ngoài nghĩa vụ thuế đối với hoạt động kinh doanh riêng của mình, Uber Việt Nam và Grab Việt Nam phải đứng ra thực hiện nghĩa vụ thuế thay đơn vị trực tiếp kinh doanh đang ở nước ngoài theo quy định của Thông tư 205/2013/TT-BTC ngày 24-12-2013 của Bộ Tài chính. Lý do, chính Uber Việt Nam và Grab Việt Nam trên thực tế “đã thường xuyên thương lượng, ký kết hợp đồng ràng buộc nghĩa vụ hoặc trách nhiệm của công ty nước ngoài”. Đương nhiên, đây là tình huống tạm thời. Cơ sở thuế này có thể sẽ mất đi nếu như Uber Việt Nam và Grab Việt Nam không tiếp tục thực hiện các hoạt động như vậy.
Không những thế, việc xác định cơ sở thuế của cả Uber và Grab vẫn phải đối diện khá nhiều khó khăn. Nguyên do, cơ quan thuế Việt Nam khá gian nan để xác định chính xác khoản thu nhập chịu thuế của các đơn vị này vì cho đến nay gần như vẫn phải phụ thuộc hoàn toàn vào nội dung kê khai của chính người của họ.