(KTSG Online) – Có 30 dự án đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp có vốn nhà nước bị lỗ với tổng số lỗ phát sinh trong năm 2021 là 335,53 triệu đô la Mỹ, tăng 42% so với số lỗ của các dự án báo lỗ vào năm trước đó.
- Sức khoẻ tài chính của 4 ngân hàng thương mại nhà nước ra sao?
- 16 tập đoàn, tổng công ty, công ty mẹ - con lỗ lũy kế 14.703 tỉ đồng
Thông tin về tình hình đầu tư ra ngoài của các doanh nghiệp nhà nước (DNNN) và doanh nghiệp có vốn nhà nước, Chính phủ cho biết, tính đến ngày 31-12-2021 có 30 DNNN, doanh nghiệp có vốn nhà nước thực hiện đầu tư 137 dự án ra nước ngoài theo hình thức trực tiếp đầu tư và đầu tư thông qua các công ty con cấp 1, cấp 2, nhiều hơn 6 dự án so với cùng thời điểm năm 2020.
Ba lĩnh vực đầu tư chính: dầu khí, viễn thông và cao su
Về tình hình đầu tư, số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện là 43,63 triệu đô la Mỹ tại 21 dự án trong năm 2021, chủ yếu tại các dự án của PVEP/PVN (18,88 triệu đô la), Viettel (15 triệu đô la), Tổng công ty Hợp tác kinh tế Quân khu 4 (3,38 triệu đô la); Tập đoàn Cao su Việt Nam-VRG (2,92 triệu đô la).
Cũng trong năm đó, tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài của các dự án là 6.615,45 triệu đô la, bằng 55% số vốn đăng ký. Trong đó, PVN có số vốn đầu tư ra nước ngoài thực hiện lớn nhất với 3.992,28 triệu đô la, chiếm 60% tổng số vốn đầu tư ra nước ngoài. Viettel đứng thứ hai với 1.469,94 triệu đô la, chiếm 22%. VRG đứng thứ ba với 770,80 triệu đô la chiếm 12%.
3 lĩnh vực có tổng vốn đầu tư ra nước ngoài lớn nhất là dầu khí, viễn thông và trồng, chế biến mủ cao su với 96% tổng vốn đầu tư.
Vào năm ngoái, số vốn thu hồi từ các dự án đầu tư ra nước ngoài là 509,75 triệu đô la. Trong đó, lợi nhuận chuyển về nước là 278,56 triệu đô la. Số tiền này chủ yếu tới từ các dự án của các tập đoàn, tổng công ty hoạt động theo mô hình công ty mẹ - con như PVN với 288,34 triệu đô la, Viettel với 147,12 triệu đô la, Tổng công ty Hàng không Việt Nam với 35 triệu đô la, Tổng công ty Hợp tác kinh tế Quân khu 4 với 15,52 triệu đô la, VRG với 13,89 triệu đô la.
Tổng số vốn đã thu hồi luỹ kế tới 31-12-2021 là 3.641,43 triệu đô la, trong đó có 1.744,5 triệu đô la là lợi nhuận chuyển về nước. Số tiền này tới từ 62 dự án của 14 doanh nghiệp đã phát sinh thu hồi vốn đầu tư. PVN có số vốn đầu tư thu hồi luỹ kế lớn nhất với 2.631,62 triệu đô la, Viettel đứng thứ hai với 853,41 triệu đô la.
Tổng số lỗ phát sinh trong năm 2021 tăng 42%
Về kết quả kinh doanh, có 88 dự án đầu tư ra nước ngoài phát sinh doanh thu với tổng doanh thu là 7.786,56 triệu đô la trong năm 2021, tăng 40% so với năm 2020.
Trong đó, 62 dự án có lợi nhuận, với tổng lợi nhuận sau thuế là 810,2 triệu đô la, tăng 90%. Số lợi nhuận được chia trong năm của các nhà đầu tư Việt Nam là 284,82 triệu đô la, tăng 140%.
Bên cạnh các dự án có báo cáo có lãi, vẫn có 30 dự án bị lỗ với tổng số lỗ phát sinh trong năm 2021 là 335,53 triệu đô la, tăng 42% so với số lỗ của các dự án báo lỗ năm 2020.
Cụ thể, tổng số lỗ từ 8 dự án trong lĩnh vực viễn thông là 293,32 triệu đô la, bằng 87% tổng số lỗ phát sinh trong năm 2021. Nguyên nhân chính là lỗ chênh lệch tỷ giá chưa thực hiện của các dự án tại thị trường Myanmar của Viettel với giá trị 246,98 triệu đô la do thị trường Myanmar có chính biến, tỷ giá biến động mạnh.
Thêm vào đó là lỗ kinh doanh tại thị trường Tanzania với 43,93 triệu đô la do chính sách thắt chặt quản lý thông tin thuê bao của chính phủ và các loại thuế, phí cao.
Tổng lỗ luỹ kế tính tới 31-12-201 là 1.335,10 triệu đô la với 44 dự án ghi nhận lỗ luỹ kế, giảm 2 dự án nhưng tăng 164,04 triệu đô la so với cùng thời điểm năm 2020.
Theo Chính phủ, có nhiều nguyên nhân khiến các dự án đầu tư ra nước ngoài có lỗ phát sinh, lỗ lũy kế tiếp tục tăng. Trong đó, có sự biến động về kinh tế, chính trị, xã hội và an ninh, an toàn tại các địa bàn đầu tư như Myanmar; việc đầu tư vào một số lĩnh vực có độ rủi ro cao như tìm kiếm thăm dò dầu khí, khai thác khoáng sản; các cơ chế, chính sách, pháp luật tại quốc gia đầu tư thay đổi, tại một số quốc gia pháp luật chưa minh bạch, nội dung thiếu nhất quán.
Cùng với đó, khả năng dự báo và xây dựng dự án đầu tư còn hạn chế, chưa lường hết các vấn đề phát sinh tác động ảnh hưởng đến hoạt động và hiệu quả của dự án.
Ngoài ra, một số lĩnh vực, dự án đầu tư không đạt hiệu quả, phải dừng đầu tư, có nguy cơ mất vốn, gồm các dự án thăm dò, khai thác dầu khí của PVEP (có tỷ trọng vốn đầu tư cao); dự án muối mỏ Kali tại Lào của Tập đoàn Hóa chất Việt Nam; một số dự án viễn thông gặp rủi ro tỷ giá, có lỗ lũy kế lớn, mất quyền kiểm soát như dự án Viettel Cameroon.