(KTSG) - Hệ thống sở hữu trí tuệ (SHTT) đương đại từng được đưa lên bàn thảo luận với tư cách là một công cụ tiềm năng để bảo vệ tri thức truyền thống. Tuy nhiên, hai hệ thống này gần như không tương thích, nếu không muốn nói là đối lập nhau, đã khiến cuộc thảo luận đi vào bế tắc. Vấn đề sở hữu và khai thác tri thức truyền thống, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự luân chuyển thông tin lại tiếp tục là câu hỏi rất cần có lời đáp.
Tri thức truyền thống, từ thảo dược đến văn hóa dân gian và nghệ thuật bản địa, không chỉ là nền tảng cho các hoạt động đổi mới của các ngành công nghiệp hiện đại như dược hóa phẩm mà còn là nguồn cảm hứng cho những người làm công việc sáng tạo. Lợi ích do tri thức truyền thống mang lại nhiều không kể xiết.
Mỏ vàng lộ thiên
Bà Đồ U U và các đồng nghiệp người Trung Quốc đã tìm ra cách chiết xuất Thanh Hao tố (Artemisinin) từ cây Thanh Hao hoa vàng dùng để chữa bệnh sốt rét. Công trình này đã khiến bà Đồ trở thành người Trung Quốc đầu tiên chiến thắng giải Nobel Sinh lý học và Y khoa năm 2015.
Không chỉ mang lại danh tiếng cho quốc gia, chiết xuất Thanh Hao tố (tri thức truyền thống) còn đem lại lợi nhuận khổng lồ cho các công ty dược. Tuy nhiên, gần như toàn bộ các công ty này đến từ các nước phát triển, nơi có đủ điều kiện về mặt công nghệ lẫn pháp lý để khai thác kiến thức bản địa một cách triệt để.
Nước Mỹ vào đầu những năm 1990 cấp bằng sáng chế cho (1) các sản phẩm thuốc trừ sâu có nguồn gốc từ cây neem và (2) phương pháp sản xuất và sử dụng các sản phẩm đó. Điều này gây tranh cãi dữ dội vì cây neem đã được sử dụng ở Ấn Độ cho rất nhiều mục đích y tế trong hai thiên niên kỷ. Vì vậy, sáng chế này không đáp ứng tính mới theo quy định của luật sáng chế.
Tuy nhiên, vào thời điểm đó, luật sáng chế Mỹ không xem xét bằng chứng liên quan đến kiến thức đã bộc lộ với công chúng hay việc sử dụng một sáng chế trong việc xác định tính mới và tính sáng tạo, nếu bằng chứng đó chưa được nhắc đến trong một bằng sáng chế hoặc một ấn phẩm in nào. Quy định nêu trên đã bị bãi bỏ vào năm 2011 khi Mỹ thay đổi luật sáng chế.
Một lượng lớn tri thức truyền thống khắc trong máu thịt của một dân tộc đã xuất hiện trước luật SHTT hàng thế kỷ. Nhưng luật SHTT đã biến tri thức truyền thống thành một kẻ vô gia cư chỉ vì tri thức truyền thống thiếu một tờ giấy mang dấu “sở hữu”. Vì vậy, các quốc gia có tri thức truyền thống (như Việt Nam) bị thiệt thòi vì luật SHTT ra đời dựa trên sự thỏa hiệp có lợi cho các nước phát triển. Đã đến lúc những nước có tài nguyên này nên được đền bù thỏa đáng cho việc bảo quản các nguyên liệu thô thay vì trao hết lợi ích cho chủ sở hữu SHTT thường là các công ty giàu có của phương Tây.
Một ví dụ khác đến từ hãng dược Eli Lilly của Mỹ vào năm 1954 khi công ty này đã chiết xuất thành công hai chất Vinblastine và Vincristine có khả năng chống ung thư từ cây dừa cạn hồng ở Madagasca. Eli Lilly đã được cấp bằng sáng chế đối với phương pháp cô lập các chất này và thu hàng trăm triệu đô la từ việc bán các loại thuốc có chiết xuất nêu trên.
Tuy nhiên, người dân Madagascar chưa bao giờ nhận được bất kỳ khoản thù lao nào cho việc sử dụng kiến thức truyền thống của họ.
Tại Việt Nam, những vụ tranh cãi cũng xảy ra khi nhiều ca sĩ sử dụng chất liệu dân gian trong các sản phẩm âm nhạc. Điều này bị nhận xét là “bắt chước” hay “ăn theo” khi một ca sĩ khác đã làm rất tốt việc này trước đó.
Những ví dụ nêu trên đặt ra câu hỏi về vấn đề sở hữu và khai thác tri thức truyền thống, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và sự luân chuyển thông tin khiến cho tri thức truyền thống càng trở nên mong manh hơn bao giờ hết. Giá trị của tri thức truyền thống và rủi ro của việc không được bảo hộ buộc các nhà làm luật tính đến một giải pháp khác khả thi hơn.
Khó được bảo vệ bằng biện pháp SHTT Tây phương
Cho đến nay vẫn chưa có tổ chức nào đưa ra một định nghĩa hoàn chỉnh về tri thức truyền thống vì phạm trù rộng lớn của khái niệm này. Tuy nhiên, Tổ chức SHTT Quốc tế (World Intellectual Property Organisation - WIPO) đã đưa ra một cách hiểu tạm thời được chấp nhận bởi nhiều bên: Tri thức truyền thống là kiến thức, bí quyết, kỹ năng và thực hành được phát triển, duy trì và truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác trong một cộng đồng, thường tạo thành một phần bản sắc văn hóa hoặc tinh thần của cộng đồng đó(1).
Trên thực tế, ngoài thuật ngữ tri thức truyền thống (Traditional Knowledge), các thuật ngữ khác như tri thức bản địa - Indigenous Knowledge, tri thức dân gian - Folklore Knowledge, biểu hiện văn hóa truyền thống - Traditional Cultural Expressions cũng được sử dụng theo nghĩa tương tự và thường xuyên hoán đổi cho nhau.
Mặc dù tri thức truyền thống được tạo ra trong một cộng đồng và việc sử dụng nó là một phần của truyền thống văn hóa của chính cộng đồng nói trên, tri thức truyền thống không nhất định mang tính cổ xưa hay tĩnh tại. Dù vậy, rất khó để đối tượng này được bảo vệ bằng biện pháp SHTT Tây phương nhằm khuyến khích đổi mới.
Trở ngại đầu tiên là rất khó hay thậm chí không thể xác định được ai là người tạo ra tri trức truyền thống, trong khi hệ thống SHTT đương đại xoay quanh một chủ thể sáng tạo nhất định. Chẳng hạn, thời hạn bảo hộ một tác phẩm là cả cuộc đời tác giả và 50 (hoặc 70) năm kể từ khi tác giả qua đời. Quyền nhân thân hay tính nguyên bản (original) của một tác phẩm trong quyền tác giả đều có liên hệ mật thiết với cá nhân tác giả.
Tương tự như vậy, việc xác định sai tên nhà sáng chế có thể khiến một bằng sáng chế trở nên không hợp lệ. Mặc dù luật SHTT có các điều khoản đồng sở hữu như doanh nghiệp hoặc người sử dụng lao động, nhà sáng tạo vẫn có thể được nhận dạng. Ngược lại tri thức truyền thống là tài sản của “cộng đồng”, đề cập đến một nhóm tập thể có cùng nền tảng văn hóa ở một số vùng nhất định. Nói một cách dí dỏm, “tri thức truyền thống” thuộc về tất cả nhưng cũng không thuộc về ai.
Thứ hai, những thành tố tạo nên tri thức truyền thống khó đáp ứng yêu cầu bảo hộ. Rất khó để chứng minh tính mới và tính sáng tạo của liệu pháp thảo dược dưới quy định của luật sáng chế. Hay vật tổ và truyện dân gian thường được xem là ý tưởng hơn là sự thể hiện của ý tưởng và do vậy, không đủ điều kiện để bảo vệ bằng quyền tác giả(2).
Thứ ba, chế định SHTT được thiết kế để cung cấp cho chủ sở hữu độc quyền trong thời gian hạn chế để khuyến khích đổi mới, nhưng tri thức truyền thống lại được sử dụng trong nhiều thế kỷ. Dưới góc độ xã hội lẫn đạo đức, sẽ hợp lý nếu chúng được để lại trong không gian pháp lý miễn phí thay vì được đối xử như là sở hữu tư. Cuối cùng, việc thiếu một chủ nhân thực sự khiến cho việc quản lý, khai thác tri thức truyền thống cũng như tiến hành các thủ tục pháp lý để bảo vệ chúng khi cần thiết trở nên bất khả thi.
Với tất cả những đặc điểm nêu trên, tri thức truyền thống hoàn toàn không tương thích với các quyền SHTT hiện tại.
Kẻ đứng ngoài lề
Bản thân việc không (hoặc không thể) bảo hộ đã loại trừ khỏi tri thức truyền thống các quyền sở hữu liên quan. Trớ trêu thay, các sản phẩm dựa trên kiến thức đó lại đủ điều kiện để hưởng sự bảo hộ. Tác giả của một bức tranh có thể yêu cầu bản quyền cho tác phẩm của mình có tham khảo văn hóa dân gian. Một loại thuốc mới có chứa các thành phần thảo mộc hiệu quả có thể được cấp độc quyền bằng sáng chế. Không thể phủ định rằng những chủ thể sáng tạo nói trên có quyền được tưởng thưởng cho thành quả trí tuệ tạo ra vì họ đã đóng góp một phần công sức của mình.
Nhưng điều này không giải thích được tại sao một người lại sở hữu toàn bộ sản phẩm nếu anh ta chỉ đóng góp một phần nhỏ vào đó. Học giả Robert Nozick thắc mắc, nếu ông đổ một hộp nước cà chua vào đại dương, thì ông nên có quyền sở hữu đại dương hay chấp nhận mất đi hộp nước của mình?(3)
Sẽ không công bằng nếu chúng ta lờ đi những đóng góp từ lâu đời của tri thức truyền thống cho nhân loại so với sự xuất hiện gần đây của luật SHTT. Hệ thống SHTT manh nha từ thế kỷ 17 và phát triển mạnh mẽ trong thế kỷ 18. Đây là hai thế kỷ của thời đại Ánh sáng - thời kỳ rực rỡ của văn minh loài người khi lý trí và khoa học được đánh giá cao hơn niềm tin mù quáng và khi mọi người dám thách thức các cấu trúc đã được thiết lập sẵn.
Trong khi đó, một lượng lớn tri thức truyền thống khắc trong máu thịt của một dân tộc đã xuất hiện trước luật SHTT hàng thế kỷ. Chính các dân tộc đã truyền tải những kho báu này từ thế hệ này sang thế hệ khác, và do đó, những nhà sáng tạo có thể phát triển cái gọi là sản phẩm SHTT bằng cách đứng trên vai những truyền thống còn tồn tại này.
Luật SHTT đã biến tri thức truyền thống thành một kẻ vô gia cư, thèm thuồng đứng nhìn một người khác xây dựng căn biệt thự hoành tráng trên chính mảnh đất của mình, chỉ vì tri thức truyền thống thiếu một tờ giấy mang dấu “sở hữu”. Các quốc gia có tri thức truyền thống (như Việt Nam) bị thiệt thòi vì luật SHTT ra đời dựa trên sự thỏa hiệp có lợi cho các nước phát triển.
Một học giả không ngần ngại huỵch toẹt: chính không gian pháp lý miễn phí đã cứu mạng người(4) khi nói về bằng sáng chế của Công ty Eli Lilly đối với chiết xuất từ cây dừa cạn. Vì vậy, những nước có tài nguyên nên được đền bù thỏa đáng cho việc bảo quản các nguyên liệu thô thay vì trao hết lợi ích cho chủ sở hữu SHTT thường là các công ty giàu có của phương Tây.
Nếu giải pháp thay thế SHTT chỉ đơn giản là không bảo hộ tri thức truyền thống dưới bất kỳ hình thức nào sẽ dẫn đến việc các cộng đồng bản địa phó mặc tài nguyên cho kẻ giàu và kẻ mạnh. Do đó, một phương án khả thi như bồi thường bằng tiền có lẽ là phù hợp nhất trong bối cảnh hiện tại. Mặc dù đây không phải là một nhiệm vụ dễ dàng, vì rất khó định giá giá trị của tri thức của cả một dân tộc, một cộng đồng, các quốc gia giàu có về tri thức bản địa như Ấn Độ, Trung Quốc và Brazil đã có những sáng kiến nhằm bảo vệ nguyên tài nguyên quý giá của dân tộc mình.
(*) Giảng dạy môn luật SHTT, Khoa Luật, Đại học Oxford, Vương quốc Anh.
(1) WIPO, Traditional Knowledge https://www.wipo.int/tk/en/tk/#:~:text=Traditional%20knowledge%20(TK)%20is%20knowledge,its%20cultural%20or%20spiritual%20identity.
(2) Bản án 213/2014/DS-ST ngày 14-8-2014 Về vụ án tranh chấp quyền SHTT của Tòa án Nhân dân quận Tân Bình, TPHCM.
(3) Robert Nozick, Anarchy, State, and Utopia (New York: Basic Books, 1974) trang 175.
(4) James Boyle, “The Second Enclosure Movement and the Construction of the Public Domain” LAW & CONTEMP. PROBS. (66) (Winter/Spring 2003), trang 36.