(KTSG) - Luật hóa quy định về quyền thu giữ tài sản bảo đảm của ngân hàng là một trong ba nhóm chính sách được Ngân hàng Nhà nước đưa ra trong đề nghị xây dựng Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng. Lại một lần nữa, vấn đề này trở thành chủ đề thu hút sự quan tâm của dư luận và các bên liên quan.
- Luật hóa quyền thu giữ tài sản bảo đảm - liệu có phá được thế lưỡng nan?
- Xử lý nợ xấu nhìn từ một số vấn đề về xử lý tài sản bảo đảm
Quyền thu giữ tài sản bảo đảm - lúc có lúc không!
Trước năm 2007, pháp luật Việt Nam chưa cho phép bên nhận bảo đảm tự thu giữ tài sản bảo đảm (TSBĐ) khi bên đi vay vi phạm nghĩa vụ. Đến khi Nghị định 163/2006/NĐ-CP (có hiệu lực từ năm 2007) được ban hành, lần đầu tiên bên nhận bảo đảm được trao quyền chủ động thu giữ TSBĐ nếu bên giữ TSBĐ không tự nguyện giao sau khi đến hạn và đã được thông báo.
Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự 2015 lại không tiếp tục quy định trực tiếp quyền thu giữ TSBĐ. Thay vào đó, bên nhận bảo đảm chỉ có thể yêu cầu tòa án giải quyết khi bên giữ TSBĐ không hợp tác trong việc bàn giao TSBĐ. Điều này đồng nghĩa rằng từ năm 2017 (năm Bộ luật Dân sự 2015 có hiệu lực), ngân hàng mất đi cơ sở pháp lý rõ ràng để tự thu giữ TSBĐ, chỉ còn một lựa chọn là theo đuổi con đường kiện tụng.
Sau đó, trong bối cảnh tình hình nợ xấu tại các ngân hàng chuyển biến xấu, Quốc hội đã ban hành Nghị quyết 42/2017/QH14 về thí điểm xử lý nợ xấu của các tổ chức tín dụng; theo đó, từ ngày 15-8-2017, trao cho tổ chức tín dụng quyền thu giữ TSBĐ của khoản nợ xấu nhưng kèm theo nhiều điều kiện phải đáp ứng khi thực hiện quyền. Đây như là một cơ chế pháp lý đặc thù giúp ngân hàng thu giữ TSBĐ đối với cả khoản nợ hình thành trước năm 2017 nhưng chỉ là giải pháp tạm thời nhằm giải quyết những thách thức cấp bách. Nghị quyết 42 ban đầu có hiệu lực năm năm và đã được gia hạn đến cuối năm 2023. Hiện nay, nghị quyết này đã hết hiệu lực. Đồng thời, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã nhiều lần đề xuất luật hóa quy định về quyền thu giữ TSBĐ của ngân hàng trong quá trình xây dựng Luật các tổ chức tín dụng 2024 nhưng đều không được thông qua.
Việc trao cho ngân hàng quyền thu giữ TSBĐ là nhằm bảo vệ lợi ích của chủ nợ, giúp xử lý nợ xấu nhanh và khơi thông dòng vốn tín dụng. Tuy nhiên, việc này không nên khiến cán cân lợi ích nghiêng hẳn về phía ngân hàng mà xem nhẹ quyền lợi của bên đi vay.
Tình trạng thay đổi liên tục - từ chỗ không cho phép, sang cho phép có điều kiện, rồi lại bỏ ngỏ sau khi Nghị quyết 42 hết hạn - khiến khung pháp lý về quyền thu giữ TSBĐ rơi vào trạng thái bất định. Hiện nay, khi chưa có cơ chế đặc thù như Nghị quyết 42, các ngân hàng không thể tự thu giữ TSBĐ dù trong hợp đồng có thỏa thuận cho phép, mà buộc phải khởi kiện ra tòa án và chờ thi hành án. Thủ tục kiện tụng và thi hành án thường kéo dài, trong khi TSBĐ có thể xuống cấp hoặc mất giá theo thời gian. Nhiều khoản nợ xấu nhỏ lẻ phải tốn chi phí kiện tụng cao, làm đội chi phí xử lý nợ và giảm hiệu quả thu hồi.
Do vậy, NHNN một lần nữa đã đệ trình đề xuất sửa đổi Luật các tổ chức tín dụng 2024 để luật hóa quy định quyền thu giữ TSBĐ của các ngân hàng.
Ngân hàng thu giữ tài sản bảo đảm - hai chiều dư luận
Kết quả thực hiện Nghị quyết 42 đã cho thấy quyền thu giữ TSBĐ là một cơ chế cần thiết góp phần giúp ngân hàng xử lý được nợ xấu, bao gồm cả việc thúc đẩy ý thức tự nguyện, chủ động thanh toán nợ của bên đi vay.
Tuy vậy, trên thực tế, việc thu giữ TSBĐ của các ngân hàng gặp rất nhiều trở ngại. Trong giai đoạn thực hiện Nghị quyết 42, dù pháp luật trao quyền thu giữ TSBĐ cho ngân hàng, việc triển khai cũng không hề dễ dàng. Một số khách hàng cố tình chống đối, không hợp tác bàn giao TSBĐ, thậm chí tạo ra tranh chấp pháp lý để kéo dài thời gian. Thực tiễn xét xử tại tòa án ghi nhận những tranh chấp phát sinh từ hành vi thu giữ TSBĐ của ngân hàng.
Về phía dư luận, quyền thu giữ TSBĐ của ngân hàng là vấn đề nhạy cảm và gây tranh cãi. Các ngân hàng cho rằng công cụ chính sách này là cần thiết để xử lý nợ xấu nhanh, bảo vệ quyền lợi bên cho vay và nâng cao ý thức trả nợ của bên đi vay. Tuy nhiên, không ít ý kiến lo ngại việc cho phép ngân hàng thu giữ TSBĐ có thể dẫn đến lạm quyền, xâm phạm quyền lợi hợp pháp của bên đi vay cũng như người liên quan. Điều này dễ dẫn đến những xung đột xã hội. Thực tế xét xử cho thấy có trường hợp tòa án tuyên bố ngân hàng thu giữ TSBĐ là trái luật do không tuân thủ quy trình và phải công khai xin lỗi cũng như có trách nhiệm bồi hoàn(1). Điều này cho thấy rất rõ tính phức tạp và nhạy cảm khi áp dụng quyền này.
Cân bằng lợi ích giữa ngân hàng và người vay tiền
Về mục tiêu chính sách, việc trao cho ngân hàng quyền thu giữ TSBĐ là nhằm bảo vệ lợi ích của chủ nợ, giúp xử lý nợ xấu nhanh và khơi thông dòng vốn tín dụng. Tuy nhiên, việc này không nên khiến cán cân lợi ích nghiêng hẳn về phía ngân hàng mà xem nhẹ quyền lợi của bên đi vay. Một nguyên tắc quan trọng trong pháp luật nhiều nước là đảm bảo việc xử lý TSBĐ phải cân đối lợi ích các bên, tránh để bên đi vay lâm vào tình trạng khốn cùng.
Do vậy, quy định về quyền thu giữ TSBĐ của ngân hàng phải tránh tạo ra sự bất đối xứng giữa bên cho vay và đi vay. Cụ thể, khi cho phép thu giữ TSBĐ, luật pháp cần đồng thời thiết kế các cơ chế bảo vệ bên đi vay.
Trước hết, người vay phải được quyền tiếp cận thông tin đầy đủ và hiểu rõ về nguy cơ mất tài sản nếu không trả nợ - từ lúc ký hợp đồng đã phải biết điều khoản thu giữ (nếu có). Trong quá trình thu giữ, họ cần được thông báo, được tạo điều kiện chứng kiến để đảm bảo sự minh bạch. Quan trọng hơn, bên đi vay nên có cơ hội khắc phục trước khi bị thu TSBĐ. Ví dụ, luật có thể quy định quyền được trả nợ muộn trong một thời hạn nhất định sau khi vi phạm hoặc quyền chuộc lại tài sản trước khi ngân hàng bán cho bên thứ ba nếu nhanh chóng thanh toán đầy đủ cả gốc lẫn lãi. Những quyền này bảo đảm người vay không bị mất tài sản một cách đột ngột và vẫn có cơ hội cứu vãn tình hình tài chính.
Bên cạnh đó, mọi khoản tiền dư sau khi ngân hàng xử lý tài sản (giá bán trừ đi nợ và chi phí) phải được hoàn trả cho người vay theo đúng luật định. Đây là quyền đương nhiên của bên bảo đảm nhằm bảo vệ tài sản thuộc sở hữu của họ.
Ngoài ra, pháp luật cũng cần lưu ý đến tính nhân văn trong quá trình thực hiện quyền trong trường hợp TSBĐ là nhà ở duy nhất của hộ gia đình hay là công cụ lao động chủ yếu để duy trì đời sống của người vay. Trong trường hợp này, việc thu giữ tài sản có thể ảnh hưởng đến chỗ ở, sinh kế của nhiều người và có thể đẩy họ vào tình trạng kiệt quệ. Do đó, khi áp dụng biện pháp thu giữ tài sản, ngân hàng phải có chính sách hỗ trợ tài chính để người vay có thể thuê nhà ở trong thời hạn tối thiểu một năm hoặc thỏa thuận cho gia đình người vay có thời gian chuẩn bị nơi ở mới, tránh gây xáo trộn xã hội. Nếu TSBĐ là công cụ lao động chủ yếu thì nên có cơ chế để cho người vay thuê lại chính tài sản đó để tiếp tục lao động và duy trì cuộc sống(2).
Một khía cạnh cân bằng lợi ích nữa là xử lý nợ xấu hài hòa với an sinh xã hội. Nếu luật quá ưu tiên ngân hàng, người dân có thể e ngại vay vốn, sợ rủi ro bị mất tài sản, từ đó hạn chế tiếp cận tín dụng chính thức và có thể tìm đến tín dụng đen. Ngược lại, nếu luật quá bảo vệ người vay, kỷ luật tín dụng bị suy giảm, ngân hàng thận trọng hơn trong cho vay, tín dụng thắt chặt và chi phí vay tăng cho tất cả mọi người. Vì vậy, điểm mấu chốt là phải thiết kế được quy trình thu giữ TSBĐ công bằng và nhân văn, trong đó ngân hàng đòi được nợ nhưng người vay cũng được đối xử hợp lý, giữ được nhân phẩm và quyền lợi chính đáng. Sự cân bằng này sẽ tạo niềm tin cho cả hai phía, góp phần xây dựng một môi trường tín dụng lành mạnh, bền vững.
(*) Trường đại học Kinh tế - Luật, ĐHQG TPHCM.
(1) Xem thêm: Bản án số 38/2022/DS-PT của Toà án nhân dân tỉnh Hải Dương ngày 28-9-2022 về tranh chấp nghĩa vụ giao TSBĐ của khoản nợ xấu và tranh chấp hợp đồng tín dụng.
(2) Xem thêm: Đoàn Thị Phương Diệp, Lưu Minh Sang, Quyền thu giữ TSBĐ theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam. Tạp chí Pháp luật & Phát triển, số 3⁄2022.