(KTSG Online) - Số tiền chi cho nhập khẩu linh kiện và phụ tùng ô tô của Việt Nam tiếp tục tăng và đạt gần 2,3 tỉ đô la Mỹ trong 5 tháng đầu năm nay. Chiều hướng cho thấy nhập khẩu nhóm hàng này sẽ tiếp tục tăng cao trong thời gian tới.
Phụ tùng linh kiện ô tô hiện đang sản xuất tại Việt Nam chủ yếu là các sản phẩm thâm dụng lao động, công nghệ giản đơn được cho là nguyên nhân dẫn đến Việt Nam chi nhiều tiền để nhập nhóm hàng hóa này.
- Triển lãm ô tô Việt Nam sẽ quay trở lại vào tháng 10
- Tiêu thụ ô tô tăng mạnh vào tháng cuối giảm phí trước bạ 50%
Chỉ hàng tỉ đô la nhập khẩu linh kiện
Thống kê mới nhất của Tổng cục Hải quan cho thấy, trong 5 tháng đầu năm 2022, trị giá nhập khẩu nhóm hàng linh kiện và phụ tùng ô tô đạt gần 2,3 tỉ đô la, tăng 6,3% so với cùng kỳ năm trước.
Đáng chú ý, riêng tháng 5-2022, các doanh nghiệp nhập khẩu linh kiện và phụ tùng ô tô các loại tăng 11,3% so với tháng trước đó với tổng giá trị lên đến gần 540 triệu đô la Mỹ.
Điều này cho thấy xu hướng nhập khẩu linh kiện và phụ tùng ô tô của Việt Nam tiếp tục chiều hướng tăng lên. Các doanh nghiệp Việt Nam nhập khẩu nhóm mặt hàng này chủ yếu từ Hàn Quốc, Trung Quốc, Thái Lan, Nhật Bản, Ấn Độ và Indonesia, chiếm tỷ trọng hơn 90% trong tổng trị giá trị.
Thị trường ô tô trong nước được các chuyên gia và các hãng sản xuất ô tô đánh giá là rất tiềm năng để đầu tư phát triển. Tuy nhiên, tình hình thực tế về phát triển sản xuất công nghiệp cho ngành này của Việt Nam còn rất chậm.
Bộ Công Thương xác nhận phụ tùng linh kiện ô tô hiện đang sản xuất tại Việt Nam chủ yếu là các phụ tùng thâm dụng lao động, công nghệ giản đơn, như ghế ngồi, kính, săm lốp, bánh xe…
Việt Nam phải nhập khẩu ròng hầu hết các nhóm sản phẩm công nghiệp hỗ trợ có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng cao, nhất là các bộ phận, linh kiện quan trọng, thuộc hệ thống phanh, ly hợp, hộp số, hệ thống lái, yêu cầu công nghệ chế tạo ở mức cao.
Mục tiêu nâng tỷ lệ nội địa hóa ô tô vẫn "bế tắc"
Theo Bộ Công Thương, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cho ngành ô tô Việt Nam phát triển chậm cả về số lượng và chất lượng so với nhiều quốc gia trong khu vực.
Cụ thể hiện nay, chỉ một vài nhà cung cấp trong nước có thể tham gia vào chuỗi cung ứng của các nhà sản xuất, lắp ráp ô tô tại Việt Nam. So với Thái Lan, số lượng nhà cung cấp của Việt Nam trong ngành công nghiệp ô tô vẫn còn rất ít. Thái Lan có gần 700 nhà cung cấp cấp 1, nhưng Việt Nam chỉ có chưa đến 100. Thái Lan có khoảng 1.700 nhà cung cấp cấp 2, 3, trong khi Việt Nam chỉ có chưa đến 150.
Điều này dẫn đến tỷ lệ nội địa hóa đối với xe cá nhân đến 9 chỗ ngồi còn thấp. Mục tiêu đề ra cho xe cá nhân là 30-40% vào năm 2020; 40-45% vào năm 2025 và 50–55% vào năm 2030.
Tuy nhiên đến nay mới đạt bình quân khoảng 7-10%, trong đó Toyota Việt Nam cao hơn đạt khoảng 37% đối với riêng dòng xe Innova (theo thông tin từ phía doanh nghiệp), thấp hơn rất nhiều so với mục tiêu đề ra cũng như thấp hơn nhiều so với các quốc gia trong khu vực như Thái Lan, Indonesia và Malaysia.
Theo Bộ Công Thương, tăng trưởng giá trị sản xuất bình quân của ngành công nghiệp ô tô thấp hơn nhiều so với mức tăng trưởng bình quân của toàn ngành công nghiệp.
Nhìn chung máy móc, công nghệ của các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô tương đối lạc hậu. Chất lượng sản phẩm công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô còn khá thấp và giá thành cao.
Chất lượng linh kiện phụ tùng của các doanh nghiệp nước ngoài sản xuất có khoảng cách khá xa so với các doanh nghiệp Việt Nam. Hơn nữa, tốc độ trang bị mới của các doanh nghiệp trong ngành cũng ở mức tương đối thấp. Nhiều doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ cho ngành công nghiệp ô tô vẫn chưa đủ năng lực và công nghệ sản xuất để tham gia vào chuỗi giá trị ngành công nghiệp ô tô trong nước.
Từ thực trạng trên và kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc với kinh phí hỗ trợ hàng trăm triệu đô la cho ngành công nghiệp và công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam cần phải dành nguồn lực tương tự.
Trong đó, các ý kiến cho rằng cần xem xét ở các khía cạnh xây dựng cơ sở vật chất để hình thành các trung tâm hỗ trợ phát triển công nghiệp hỗ trợ, trong đó có các doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ ngành ô tô, và các dịch vụ cải tiến doanh nghiệp.
Đáng chú ý là cần xây dựng các gói tín dụng ưu đãi cho phát triển ngành; đồng thời thu hút đầu tư các nhà sản xuất sản phẩm hoàn chỉnh và các nhà cung cấp cụm linh kiện, linh kiện lớn trên thế giới, đặc biệt là các doanh nghiệp đa quốc gia đầu tư vào Việt Nam với mục tiêu phục vụ thị trường trong nước và thị trường ASEAN hơn là định hướng xuất khẩu, phục vụ thị trường toàn cầu.
Đồng thời cần có các chính sách ưu đãi, hỗ trợ cụ thể để khuyến khích các doanh nghiệp chế xuất lớn bán hàng vào nội địa, tìm kiếm cơ hội tại thị trường trong nước và phát triển chuỗi cung ứng ngành ô tô tại Việt Nam...