(KTSG Online) – Hiện nay tỷ lệ xử lý nước thải và chất thải rắn chưa cao, đồng thời còn nhiều bất cập nên khó thu hút vốn tư nhân tham gia hợp tác công tư trong lĩnh vực này. Trong khi đó, mục tiêu đặt ra là xử lý nước thải tăng từ 15% hiện tại lên 70% trong vòng 10 năm tới sẽ cần nguồn đầu tư rất lớn.
- HoREA đề xuất chưa nên tăng phí xử lý nước thải
- Tiết kiệm được 88 héc ta đất nếu TPHCM gom 3 nhà máy xử lý nước thải
Trong bối cảnh ngân sách nhà nước còn hạn chế, việc thúc đẩy hợp tác công tư trong xây dựng và vận hành các nhà máy xử lý nước thải và chất thải rắn là điều cần thiết. Trên thực tế hiện còn một số bất cập cần giải quyết mới thúc đẩy được hoạt động này.
Thông tin trên được ghi nhận tại tọa đàm về mô hình hợp tác công tư trong xây dựng và vận hành các nhà máy xử lý nước thải và chất thải rắn tại Việt Nam được tổ chức vào ngày 5-7.
Tọa đàm do Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC), Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Ủy ban Quan hệ đối tác công tư thuộc Ủy ban Quốc gia về phát triển bền vững và nâng cao năng lực cạnh tranh với sự hỗ trợ kỹ thuật của Cơ quan phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAid) cùng tổ chức.
Tại tọa đàm, ông Nguyễn Thượng Hiền, Phó tổng cục trưởng Tổng cục Môi trường, Bộ Tài nguyên và Môi trường, cho biết năm 2021 tổng khối lượng chất thải rắn tại 45/63 tỉnh thành phố hơn 55,5 ngàn tấn/ngày. Lượng chất thải rắn tăng mỗi năm khoảng 10-16%. Có khoảng hơn 70% chất thải rác sinh hoạt thu gom được xử lý bằng phương pháp chôn lấp.
“Hiện nay đầu tư phát triển hệ thống xử lý chất thải rắn sinh hoạt chủ yếu sử dụng vốn ngân sách nhà nước (trong đó vốn vay ODA là chính). Trong khi nguồn vốn của khu vực kinh tế tư nhân tham gia đầu tư còn khiêm tốn. Theo nghiên cứu của Ngân hàng Thế giới, đối với chi phí xử lý rác thải rắn ở Việt Nam, hiện 75% là do chính phủ đang tài trợ chi phí vận hành”, ông Hiền nói.
Ông Hiền cho biết tính đến cuối năm 2021, mỗi ngày Việt Nam có 65 ngàn mét khối nước thải công nghiệp. Trong đó gần 10% tổng số 290 khu công nghiệp đang hoạt động chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung. Có gần 90% trong gần 700 cụm công nghiệp chưa có hệ thống xử lý nước thải tập trung.
“Mỗi ngày Việt Nam có khoảng 3.650 triệu mét khối nước thải sinh hoạt. Cả nước có 69 công trình xử lý nước thải sinh hoạt. Trong đó có 53/69 dự án được triển khai từ nguồn vốn vay ODA, 2 dự án theo hình thức hợp tác công tư PPP, 5 dự án theo hình thức BT”, ông Hiền nói.
Ông Vũ Tiến Lộc, Chủ tịch Trung tâm Trọng tài quốc tế Việt Nam, Ủy viên Ủy ban Kinh tế của Quốc hội, cho biết Chính phủ đã ban hành Chiến lược quốc gia về tăng trưởng xanh giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn 2050 với mục tiêu cụ thể đến năm 2030 tỷ lệ chất thải rắn sinh hoạt đô thị được thu gom, xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định đạt 95%. Tỷ lệ nước thải đô thị được thu gom và xử lý đảm bảo tiêu chuẩn, quy chuẩn theo quy định lần lượt đạt trên 50% đối với đô thị loại 2 trở lên và 20% đối với các loại đô thị còn lại. Tại Nghị quyết Đại hội Đảng XIII cũng có mục chỉ tiêu xử lý nước thải là 70%.
“Theo đó, chỉ tính riêng trong lĩnh vực xử lý nước thải, việc tăng chỉ tiêu từ 15% lên 70% trong vòng 10 năm tới cần nguồn đầu tư rất lớn, từ 10-20 tỉ đô la Mỹ”, ông Lộc nói.
Để thực hiện mục tiêu trên, ông Lộc cho rằng cần tìm hiểu giải pháp kỹ thuật, công nghệ, đồng thời nâng cao vai trò cộng đồng, thực hiện xã hội hoá nhằm phát huy mọi nguồn lực tham gia quản lý nước thải và chất thải rắn. Nhưng trong thời gian trước đây, việc triển khai hợp tác công tư trong lĩnh vực xử lý nước thải, chất thải rắn chưa có nhiều. Có một số dự án thực hiện theo mô hình BT và Bộ Tài nguyên và Môi trường cũng đánh giá là chưa đáp ứng được nhu cầu thực tế.
Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (Luật PPP) đã được Quốc hội ban hành và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2021 với kỳ vọng đạt bước tiến trong thu hút đầu tư từ khối tư nhân thông qua hợp tác công – tư, để thực hiện các dự án phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội và cung cấp dịch vụ công.
“Kể cả trước và sau khi Luật PPP có hiệu lực, vì nhiều lý do khách quan và chủ quan, phương thức đối tác công – tư trong lĩnh vực xử lý nước thải và chất thải rắn vẫn chưa được triển khai nhiều tại Việt Nam. Cho dù nó được đánh giá nếu làm tốt sẽ cải thiện mạnh mẽ chất lượng môi trường đô thị nhờ nguồn lực dồi dào và sự năng động của khối tư nhân”, ông Lộc nói.
Vẫn theo ông Lộc, cuối năm 2021, sau gần 1 năm Luật PPP có hiệu lực, Thủ tướng Chính phủ đã có các chỉ thị cụ thể, nhấn mạnh những những nhiệm vụ cần triển khai thực hiện để nhanh chóng thúc đẩy việc bổ sung, hoàn thiện các hướng dẫn làm cơ sở cho việc triển khai các dự án đối tác công tư. Theo đó, nhiệm vụ thực hiện chuẩn bị các mẫu hợp đồng, các hướng dẫn chi tiết cho hoạt động đầu tư theo phương thức đối tác công tư trong lĩnh vực thoát nước, xử lý nước thải, xử lý chất thải của các bộ ngành liên quan được nêu rõ.
Nói về khó khăn trong thu hút hợp tác công tư trong lĩnh vực này, ông Hiền cho biết giá dịch vụ xử lý nước thải, chất thải rắn còn thấp. Trong khi đó chi phí vận hành bảo dưỡng hệ thống xử lý yêu cầu kinh phí cao. Cơ chế huy động nguồn lực từ tư nhân vẫn chưa phát huy hiệu quả, thiếu các cam kết hỗ trợ cụ thể để tạo môi trường đầu tư thuận lợi thông thoáng an toàn cho nhà đầu tư...
Ông Hiền kiến nghị cần hình thành khung pháp lý rõ ràng cho PPP. Trong đó có các cơ chế, chính sách về tín dụng, phí dịch vụ, đất đai... để thu hút đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó cần hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật, cơ chế chính sách đi kèm hướng dẫn chi tiết đối với các chính sách ưu đãi hỗ trợ của Nhà nước đối với xử lý nước thải và chất thải rắn đô thị. Đẩy mạnh hình thức đấu thầu rộng rãi để lựa chọn nhà đầu tư, ưu tiên đấu thầu quốc tế, hạn chế tối đa tình trạng chỉ định thầu.