(KTSG Online) - Việc kéo dài và hoàn thiện một số quy định về xử lý nợ xấu tại Nghị quyết 42/2017 sẽ giúp ngành ngân hàng xử lý hiệu quả các khoản nợ xấu tiềm ẩn sau hai năm dịch bệnh, theo TS Nguyễn Quốc Hùng - Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam.
- Tán thành đề xuất kéo dài áp dụng nghị quyết thí điểm xử lý nợ xấu
- Nợ xấu bất động sản chiếm 18,4% tổng nợ xấu toàn hệ thống
Chia sẻ với báo chí về việc kéo dài Nghị quyết 42/2017 của Quốc hội về thí điểm xử lý nợ xấu các tổ chức tín dụng (TCTD), TS Nguyễn Quốc Hùng - Tổng thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam – cho biết việc kéo dài chính sách này rất cần thiết khi giúp người dân nâng cao ý thức, trách nhiệm trong việc trả nợ.
KTSG Online: Ông đánh giá thế nào về những kết quả đạt được sau gần 5 năm triển khai Nghị quyết 42/2017?
- TS Nguyễn Quốc Hùng: Từ khi được ban hành đến nay, Nghị quyết 42/2017 có tác động hết sức tích cực với hoạt động xử lý nợ xấu của hệ thống ngân hàng. Theo đó, chính quyền các cấp, từ Bộ Tư pháp, Bộ Công an đến các chính quyền địa phương đã hưởng ứng tích cực, tạo điều kiện thuận lợi cho ngành ngân hàng thu hồi nợ, phát mại tài sản, chuyển đổi, hoàn thiện thủ tục xử lý tài sản.
Trách nhiệm với khoản vay và ý thức trả nợ của khách hàng cũng nâng lên rõ rệt khi nhiều người chủ động phối hợp với ngân hàng xử lý khoản nợ.
Kết quả, ngành ngân hàng đã xử lý 750.000 tỉ đồng nợ xấu giai đoạn 2017–2021, trong đó có 390.000 tỉ đồng được xử lý theo Nghị quyết 42. Đáng lưu ý, hơn 600.000/750.000 tỉ đồng nợ xấu do các tổ chức tín dụng (TCTD) tự xử lý, còn hơn 100.000 tỉ đồng do VAMC và khoảng 20.000 tỉ đồng do các tổ chức mua bán nợ khác xử lý.
Điều này giúp tỷ lệ nợ xấu toàn hệ thống ngân hàng chỉ còn khoảng 1,49–2% tính tới 31-12-2021. Nếu dịch Covid-19 không xảy ra, hệ thống ngân hàng đạt được yêu cầu đề ra tại Nghị quyết 42/2017.
KTSG Online: Bên cạnh những kết quả tích cực, chính sách này còn những khiếm khuyết gì, thưa ông?
- Thứ nhất, từ khi Nghị quyết 42/2017 ban hành, tòa án được phép xét xử theo hình thức rút gọn. Nhưng đến nay chưa xét xử được vụ nào.
Thứ hai, việc thu giữ tài sản và chuyển nhượng rất khó khăn, đặc biệt là với những tài sản đảm bảo không phải là những dự án.
Thứ ba, Nghị quyết 42 cho phép tiền thu được do phát mại tài sản ưu tiên để trả trước song nhiều trường hợp phải trả thuế trước sau đó mới trả nợ ngân hàng. Thậm chí, có trường hợp TCTD đã phát mại tài sản đảm bảo, không thu đủ nợ gốc. Tuy nhiên vẫn phải trả đủ thuế mới có thể sang tên tài sản.
Thứ tư, một số chính quyền địa phương vào cuộc chưa được quyết liệt trong việc bảo vệ người cho vay. Đặc biệt là ở các cấp phường xã, có khi chưa phổ cập Nghị quyết 42/2017 đến hết các cấp cơ sở.

KTSG Online: Để giảm áp lực nợ xấu với hệ thống ngân hàng sau 2 năm dịch bệnh, Chính phủ đang đề xuất Quốc hội kéo dài thời hạn của Nghị quyết 42 và tiến tới sẽ có luật về xử lý nợ xấu. Quan điểm của ông về vấn đề này?
- Tôi cho rằng cần đặt câu hỏi: “Tại sao Quốc hội phải ban hành Nghị quyết 42 mới xử lý được nợ xấu?”.
Thực tế trong quá trình triển khai xử lý nợ xấu theo Luật Dân sự, Luật Các tổ chức tín dụng và các bộ luật liên quan cho thấy những nội dung chưa phù hợp, chưa đảm bảo bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chính người cho vay và người đi vay. Thậm chí, một số quy định có phần xu hướng bảo vệ người đi vay nhiều hơn.
Những yếu tố này khiến ngành ngân hàng gặp không ít khó khăn trong việc xử lý nợ.
Sự ra đời của Nghị quyết 42 đã giải quyết được nhiều vướng mắc cho ngân hàng trong việc xử lý nợ xấu. Đồng thời, giúp người dân và doanh nghiệp có trách nhiệm trả nợ hơn.
Tuy nhiên, dịch Covid-19 xuất hiện và lây lan trên toàn cầu khiến nền kinh tế Việt Nam nói chung, ngành ngân hàng nói riêng chịu những tác động nặng nề.
Để giảm khó khăn cho người dân và doanh nghiệp trong bối cảnh dịch bệnh, Ngân hàng Nhà nước đã ban hành các Thông tư 01/2020, 03/2021 và 14/2021 về cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch Covid-19.
Chính sách này đã giúp người dân và doanh nghiệp có thêm nguồn lực để vượt qua khó khăn, nhưng cũng dẫn tới tình trạng có những khoản nợ dưới chuẩn vẫn được cơ cấu để khách hàng được vay tiếp nếu họ có phương án kinh doanh hiệu quả. Điều này gia tăng rủi ro nợ xấu tiềm ẩn trong thời gian tới.
Theo số liệu thống kê, có hàng triệu tỉ đồng nợ chịu ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Nhưng số nợ được cơ cấu chỉ khoảng 300.000 tỉ đồng.
Tôi cho rằng các số liệu này chưa phản ảnh được hết thực tế vì thực tế doanh nghiệp, người dân gặp rất nhiều khó khăn trong 2 năm qua. Điều này tiềm ẩn rủi ro gia tăng nợ xấu.
Với giả định Nghị quyết 42/2017 không được gia hạn hiệu lực, tôi cho rằng các ngân hàng sẽ gặp nhiều khó khăn hơn trong việc xử lý nợ do khách hàng chây ì, thiếu trách nhiệm với khoản nợ phải trả.
Trong bối cảnh đó, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) đã trình Chính phủ kiến nghị lên Quốc hội tiếp tục xem xét, sửa đổi bổ sung và kéo dài chính sách này.
Thực tế cũng cho thấy Nghị quyết 42/2017 đã tạo hành lang pháp lý tương đối đầy đủ, giúp ngành ngân hàng đạt được kết quả rất khả quan trong việc xử lý nợ xấu. Ngoài ra, giúp khách hàng ý thức được trách nhiệm của mình trong việc trả nợ.
Vì vậy việc kéo dài Nghị quyết 42 là rất cần thiết, thậm chí có thể ban hành một luật chuyên ngành về xử lý nợ xấu.
Với trường hợp không ban hành được luật thì trong thời gian kéo dài Nghị quyết 42, NHNN nên phối hợp với các bộ, ngành rà soát Luật Các tổ chức tín dụng và các bộ luật liên quan trên cơ sở rút kinh nghiệm quá trình thực thi Nghị quyết 42/2017. Sau đó, sửa đổi bổ sung một số quy định để đồng bộ hoá giữa Luật Các tổ chức tín dụng và các bộ luật liên quan, gồm Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Thuế, Luật Đất đai, Luật Nhà ở…
KTSG Online: Trước áp lực nợ xấu tăng cao, các ngân hàng đã có những giải pháp nào dự phòng rủi ro?
- NHNN liên tục thực hiện các đợt thanh tra, xử lý các TCTD vi phạm trong hoạt động cấp tín dụng hoặc che giấu nợ xấu trong nhiều năm qua.
Với các TCTD, họ đã tiến hành song song việc tái cơ cấu và xử lý nợ xấu. Các khoản nợ chưa thể xử lý cũng được trích lập dự phòng rủi ro.
Hiện các khoản nợ xấu và nợ tiềm ẩn trở thành nợ xấu tại các TCTD đều trích lập dự phòng đầy đủ. Thậm chí, một số TCTD có tình hình tài chính lành mạnh đã tiến hành trích lập dự phòng với tỷ lệ bao phủ nợ xấu cao hơn nhiều so với tỷ lệ nợ xấu thực tế.
Ngoài ra, nhiều TCTD đã đặt vấn đề tăng vốn điều lệ trong năm 2022, qua đó nâng cao năng lực tài chính, mở rộng trích lập dự phòng rủi ro để đảm bảo an toàn hoạt động.
Những động thái này cho thấy các TCTD đều đã có sự đổi mới, tự phòng vệ cho mình.
Tuy nhiên, nỗ lực của riêng ngành ngân hàng là chưa đủ mà cần có hành lang pháp lý để tất cả xã hội có sự bình đẳng.
Với hành hang pháp lý này, người dân khi vay vốn ngân hàng phải có trách nhiệm trả nợ. Còn các bộ, ngành, chính quyền địa phương có trách nhiệm hỗ trợ ngành ngân hàng xử lý nợ xấu.
KTSG Online: Có những ý kiến cho rằng Quốc hội, Chính phủ đã trao “nhiều đặc quyền cho ngành ngân hàng” khi ban hành Nghị quyết 42/2017. Quan điểm của ông về vấn đề này?
- Tôi không nghĩ đó là đặc quyền vì thực tế trước khi có Nghị quyết 42/2017, nhiều ngân hàng không đòi được nợ do ý thức trả nợ của khách hàng rất yếu kém. Cụ thể, ngân hàng phát mại tài sản không được, thu giữ tài sản không xong, đôn đốc đòi nợ không được. Thậm chí, khách hàng bỏ mặc tài sản cho ngân hàng tự xử lý.
Đây là một trong những yếu tố khiến nợ xấu tăng cao ảnh hưởng đến an toàn hệ thống ngân hàng.
Tuy nhiên, Nghị quyết 42 được Quốc hội ban hành đã có tác dụng rất tích cực hỗ trợ ngành ngân hàng trong thu hồi nợ và xử lý tài sản bảo đảm cho các khoản nợ. Vì vậy, tôi rất mong muốn Nghị quyết sẽ kéo dài thêm.
Về phía Hiệp hội Ngân hàng, chúng tôi sẽ rà soát tất cả các văn bản pháp luật liên quan và sẽ có văn bản kiến nghị lên Chính phủ để xem xét trong quá trình sửa đổi Luật Các tổ chức tín dụng thì cũng điều chỉnh tại những luật liên quan như Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bất động sản để làm sao đảm bảo được quyền lợi, trách nhiệm của ngân hàng và người đi vay, sự phối hợp của các bộ, ngành, chính quyền địa phương trong việc xử lý nợ.
Xin cảm ơn ông!