(KTSG) - Để nâng cấp ngành công nghiệp, ngoài cách đầu tư mới, một con đường khác là nâng cao năng lực trong chuỗi giá trị của các doanh nghiệp đa quốc gia tại Việt Nam.
- Sẽ được phép thu thuế doanh nghiệp tối thiểu 15% từ các công ty đa quốc gia vào 2023?
- Văn hóa doanh nghiệp từ góc nhìn quy hoạch lãnh đạo kế nhiệm tại tập đoàn đa quốc gia
Tham gia và nâng cấp ngành công nghiệp trong chuỗi giá trị toàn cầu đang là một thách thức không nhỏ đối với nền kinh tế Việt Nam. Có nhiều cách thức để thực hiện quá trình này như đầu tư mới (greenfield) trực tiếp tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu và trở thành đối thủ của các công ty hiện hữu. Đây là hình thức phổ biến tại các quốc gia phát triển, chẳng hạn như tại Thung lũng Silicon của Mỹ. Tuy nhiên còn có một con đường khác để tham gia chuỗi giá trị toàn cầu, đó là trở thành mắt xích trong chuỗi giá trị của các công ty đa quốc gia hiện hữu.
Với con đường thứ hai, việc đầu tiên cần làm là khuyến khích các công ty đa quốc gia tại Việt Nam tập trung vào khâu cao nhất hoặc nâng cấp lên khâu cao hơn trong chuỗi giá trị. Đó là những khâu như phát triển thương hiệu, nghiên cứu và phát triển hay sản xuất phức tạp hơn, nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam được nâng cấp trong chuỗi khi là nhà cung cấp cho các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài này.
Hiện tại, các công ty đa quốc gia đang có xu hướng chuyên môn hóa cao độ vào các khâu quan trọng này, với giá trị có thể chiếm hơn 50% toàn bộ chuỗi, và thực hiện thuê ngoài các khâu giá trị thấp hơn. Đặc biệt, trong bối cảnh những ứng dụng của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ 4 (big data, IoT và tự động hóa...) đi sâu vào đời sống sản xuất, những khâu sản xuất sản phẩm vật chất hàm lượng công nghệ ít hơn sẽ được đẩy cho các quốc gia đang phát triển.
Cần tạo điều kiện để các công ty đa quốc gia nâng cấp hoặc tập trung vào các khâu khó hơn trong chuỗi và chuyển dần các khâu quan trọng kế tiếp cho các doanh nghiệp nội địa. Bản thân doanh nghiệp Việt Nam cũng được tạo điều kiện để có khả năng nâng cấp trong chuỗi.
Do vậy, việc thúc đẩy các công ty đa quốc gia nâng cấp lên các khâu quan trọng hơn trong chuỗi giá trị sẽ mở ra cơ hội cho các công ty trong nước tham gia và nâng cấp lên phân khúc cao hơn trong chuỗi. Tuy nhiên, giải pháp này cũng tiềm ẩn rủi ro là nền kinh tế sẽ bị mắc bẫy tại phân khúc thấp và tiếp tục đi sau trong cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Vì vậy, hai vấn đề này cần được giải quyết song song.
Vấn đề đầu tiên cần giải quyết nhằm giúp các công ty đa quốc gia tại Việt Nam cũng như các nhà đầu tư nước ngoài tiềm năng hướng đến các dự án đầu tư giá trị cao là nguồn nhân lực. Theo đó, Việt Nam cần tạo điều kiện thu hút các trí thức Việt kiều gồm các kỹ sư, nhà khoa học, chuyên gia về nước nhằm tạo ra nguồn nhân lực trước mắt cho các doanh nghiệp FDI có thể thực hiện các khâu nghiên cứu và phát triển cũng như đưa ra các giải pháp công nghệ cho doanh nghiệp.
Tuy nhiên về lâu dài, cần tiếp tục các chính sách thu hút sinh viên ghi danh vào các ngành mới trong khối công nghệ như lập trình và IoT cũng như các ngành thiết kế và hình thành các ý tưởng công nghệ mới. Đội ngũ này cần trang bị ngoại ngữ như một môn bắt buộc song song chương trình về kỹ thuật. Bên cạnh đó, các ngành khoa học xã hội như kinh tế cần hướng đến xu hướng khai phóng, triết học (khả năng suy luận, tư duy và logic) và ngoại ngữ bên cạnh những kỹ năng chuyên ngành khác. Làm được điều này, sinh viên có khả năng phát triển và hình thành những mô hình kinh doanh mới như mô hình quản trị nhân sự, mô hình marketing mới phù hợp với yêu cầu của quá trình nâng cấp. Khi đó, doanh nghiệp nước ngoài có thể tìm kiếm được các ý tưởng kinh doanh mới từ các sinh viên Việt Nam.
Vấn đề thứ hai là việc nâng cao khả năng của các công ty nội địa trong việc thực hiện các khâu cao hơn trong chuỗi giá trị. Chỉ khi doanh nghiệp đa quốc gia nhận thấy tiềm năng của các công ty đối tác và sẵn sàng chuyển giao khâu cao hơn cho doanh nghiệp trong nước, khi đó, doanh nghiệp mới có thể nâng cấp lên các công đoạn cao hơn trong chuỗi.
Để làm được điều này, doanh nghiệp cần chủ động áp dụng các tiêu chuẩn quản lý chất lượng cũng như quản trị doanh nghiệp theo tiêu chuẩn quốc tế thông qua việc hợp tác chặt chẽ với các đối tác và các công ty tư vấn. Doanh nghiệp cần phát triển khả năng công nghệ thông qua quá trình làm việc với các công ty đối tác và hoạt động tự đầu tư vào nghiên cứu. Khoảng cách công nghệ giữa công ty được chuyển giao và công ty chuyển giao càng ngắn thì khả năng hấp thụ công nghệ càng cao. Trường hợp của Apple cho thấy các công ty đa quốc gia sẵn sàng hỗ trợ nguồn vốn cho các nhà cung cấp nếu các đối tác này có khả năng về công nghệ, giao hàng và chất lượng có thể cung cấp cho Apple. Do vậy, khi doanh nghiệp có thể khẳng định được khả năng của mình thì nguồn vốn có thể được giải quyết nhờ sự hỗ trợ từ đối tác.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần có chính sách ưu đãi cho các công ty nội địa muốn tham gia vào chuỗi giá trị của các ngành liên quan đến công nghệ cao như ưu đãi về các khoản vay, hỗ trợ kỹ thuật và tìm các cơ hội nối kết các công ty đa quốc gia và các công ty Việt Nam. Song song với đó, Việt Nam cần nâng dần yêu cầu về kỹ thuật, vốn, công nghệ đối với các công ty là nhà cung cấp cho các công ty đa quốc gia, chẳng hạn như yêu cầu tham gia vào thị trường. Điều này nhằm mục đích nâng cao chất lượng ngành công nghiệp hỗ trợ cũng như tạo cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam làm đối tác cho các nhà đầu tư nước ngoài.
Để đạt được mục tiêu nâng cấp vai trò của các doanh nghiệp nội địa trong chuỗi giá trị toàn cầu, Việt Nam cần thực hiện các công việc trên song song. Chính phủ cần tạo điều kiện để các công ty đa quốc gia nâng cấp hoặc tập trung vào các khâu khó hơn trong chuỗi và chuyển dần các khâu quan trọng kế tiếp cho các doanh nghiệp nội địa. Bản thân doanh nghiệp Việt Nam cũng được tạo điều kiện để có khả năng nâng cấp trong chuỗi. Có như vậy, hai nguồn đầu tư trong nước và nước ngoài mới có thể dung hòa và bổ sung cho nhau.