Thứ Bảy, 20/04/2024
32 C
Ho Chi Minh City

VaR và “Thiên nga đen”

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

VaR và “Thiên nga đen”

(TBKTSG) – Trong cuốn “Thiên nga đen” của Nassim Taleb mà tác giả Nguyễn Vạn Phú đã đề cập (TBKTSG Xuân Kỷ sửu), Taleb cho rằng các sự kiện có xác suất xảy ra rất nhỏ (biến cố hiếm hoi) nhưng mức độ tàn phá rất lớn (Extremistan) chính là nguyên nhân gây ra cuộc khủng hoảng tài chính nặng nề hiện nay.

Vì sao chúng ta lại để nó xảy ra? Đúng như sách đã nhận định, vì “tất cả chúng ta đều nhắm mắt làm ngơ trước các biến cố hiếm hoi và cứ ảo tưởng mình có thể tiên đoán mọi rủi ro, mọi cơ hội”.

Taleb đã lý giải hiện tượng này qua cách thức quản lý rủi ro trong một bài báo gần đây trên The New York Times(*). Rủi ro được hiểu như là độ bất định của giá. Để quản lý tốt hơn rủi ro (và qua đó là lợi nhuận), các công cụ đo lường định lượng rủi ro được phát triển mạnh mẽ từ những năm 1990.

Thay vì ước lượng độ bất định của giá một cách định tính, ví dụ cần dự phòng 8% giá trị thị trường cho một danh mục cổ phiếu, người ta muốn tính ra một con số cụ thể đặc trưng cho rủi ro có thể xảy ra của danh mục đó, cập nhật liên tục nhằm tối ưu hóa dòng tiền. Tương tự như vậy cho tất cả các danh mục chứng khoán khác như trái phiếu, ngoại tệ, giấy tờ có giá…

“Có rất nhiều mô hình đo lường rủi ro, nhưng cái được sử dụng phổ biến vượt xa những mô hình khác là VaR – viết tắt của Value at Risk. Xây dựng trên những cơ sở lý thuyết xác suất và thống kê từ nhiều thế kỷ, VaR được phát triển và phổ biến đầu những năm 1990 bởi một loạt các nhà khoa học và toán học tài chính – trong ngành gọi là “quants” (viết tắt từ quantitatives) làm việc cho JPMorgan.

Sự cuốn hút lớn nhất của VaR, nhất là cho những ai không phải quants, là nó biểu diễn rủi ro dưới dạng một con số bằng đô la duy nhất, không hơn” – bài báo viết. “VaR được định nghĩa là số tiền lớn nhất một danh mục có thể bị thua lỗ với một độ tin cậy xác định, thông thường ở mức 99%.

Giả sử như VaR theo ngày của một danh mục được tính là 50 triệu đô la thì có nghĩa là đến ngày hôm sau, mức thua lỗ của danh mục đó có 99% xác suất sẽ nhỏ hơn 50 triệu đô la. Nói cách khác “chỉ có” 1% xác suất là mức thua lỗ sẽ vượt 50 triệu đô la. Danh mục có thể là cổ phiếu, trái phiếu, công cụ phái sinh hay tổng hợp của các loại trên, bất kể đặc tính của chúng thế nào.

Hơn thế, nó không chỉ đo được rủi ro của một danh mục đơn lẻ của một nhân viên giao dịch đầu tư, mà có thể cộng dồn lên cả các cấp độ cao hơn như phòng, ban cho đến rủi ro của toàn công ty. Cứ đến cuối ngày giao dịch là các nhà quản lý ngân hàng có được VaR của mình dưới dạng một con số duy nhất và có thể so sánh nó với VaR của bất kỳ một ngân hàng nào khác dù nghiệp vụ kinh doanh rất khác nhau”.

Các nhà quản lý ưa chuộng VaR đến như vậy không phải vì VaR đo lường được hết mọi rủi ro mà vì VaR khiến cho việc quản lý rủi ro trực quan, cụ thể và dễ dàng hơn rất nhiều. VaR còn được chuẩn hóa quốc tế trong tiêu chuẩn Basel II cho các ngân hàng. Và mọi vấn đề xảy ra ở cái 1% kia – xác suất của các biến cố hiếm hoi.

“Việc bạn biết được số tiền tối đa bạn có thể thua lỗ trong 99% thời gian không nói lên điều gì sẽ xảy ra ở 1% còn lại. Nếu một năm bạn có 2, 3 lần lỗ (khoảng 1% trên tổng số hơn 250 ngày giao dịch) đến 51 hay 58 triệu đô la, mức VaR 50 triệu đô la thật hữu hiệu. Nhưng nếu chỉ cần một lần lỗ 1 tỉ đô la trong cả năm, VaR vẫn đúng, và bạn phá sản” – Taleb nói.

Đó chính là những biến cố hiếm hoi mà chúng ta thường lờ đi, coi rằng việc được đảm bảo đến 99% thời gian là đủ. VaR chỉ tiếp cận các biến cố lớn trên phương diện tần số xuất hiện (nhỏ hơn 1%) chứ không phải trên phương diện độ lớn của nó.

Hơn nữa, VaR thông thường được tính toán trên các dữ liệu lịch sử hạn chế, thường là 2-3 năm, khi mà các biến cố lớn không xảy ra. Và VaR được dùng để tiên đoán rủi ro cho khoảng thời gian ngắn đến ngạc nhiên, 1 ngày hoặc nhiều hơn là 10 ngày, đó là một cái nhìn rất ngắn hạn.

Đúng như Taleb viết, “tất cả chúng ta đều nhắm mắt làm ngơ trước các biến cố hiếm hoi và cứ ảo tưởng mình có thể tiên đoán mọi rủi ro, mọi cơ hội” và “các ngân hàng đã không thể chịu đựng nổi sự tàn phá tư bản của các biến cố này, dẫn đến khủng hoảng thanh khoản và phá sản”. Và không thể đổ lỗi cho các công thức, bởi VaR vẫn luôn được tính đúng. Sai lầm ở chỗ người sử dụng các công thức đó không hiểu hết công dụng của nó, nhất là không hiểu những trường hợp nào nó không còn công dụng.

Khi loài người phát hiện ra thiên nga đen thì mọi lý thuyết về thiên nga đảo lộn. Lỗi không phải do những con thiên nga đen hay trắng mà lỗi do con người đã quy luật hóa những quan sát trong quá khứ và nghĩ rằng tương lai sẽ lặp lại giống như vậy. “Sai lầm ở đây đúng hơn là sai lầm trong quản lý” – Taleb viết.

Tuy vậy, không phải VaR không có tác dụng mà thậm chí là một công cụ hữu hiệu, nhưng không hoàn hảo. Nó phát huy tác dụng trong phần lớn các trường hợp nhưng khi sự không hoàn hảo diễn ra, cả thế giới đã chao đảo. VaR vẫn sẽ được tiếp tục sử dụng và phát huy tác dụng nếu được sử dụng đúng cách trong khi chờ đợi bổ sung những công cụ mới.

Bài học lớn của chúng ta là cần ý thức được sự tồn tại của những rủi ro trong tương lai có thể lớn chưa từng có trong quá khứ. Việc tiếp cận, đo lường và định lượng hóa nó là một điều khó khăn cần phải nghiên cứu thêm. Trong khi chờ đợi chúng ta cần theo dõi sát sao mọi danh mục kinh doanh, thiết lập những hạn mức thận trọng và cần phải hiếu rõ, làm chủ những công cụ mà chúng ta đang sử dụng, nhất là hiểu những hạn chế của nó.

Trong bối cảnh các ngân hàng của Việt Nam chưa triển khai hoặc chưa triển khai nhiều các công cụ tài chính định lượng trong đo lường rủi ro, đây là một sự cảnh báo hữu ích trong việc tiếp cận và triển khai các công cụ này.

NGUYỄN QUANG

(*) Risk Mismanagement – The New York Times (http://www.nytimes.com/2009/01/04/magazine/04risk-t.html)

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới