Thứ sáu, 8/11/2024
35.6 C
Ho Chi Minh City

Việc làm tăng cao trong bối cảnh kinh tế suy giảm: liệu có là xu hướng toàn cầu?

Chánh Tài

Kinh tế Sài Gòn Online

Kinh tế Sài Gòn Online

(KTSG Online) - Tăng trưởng kinh tế ở các nước từ Đức cho đến Nhật Bản đang chậm lại hoặc chuyển sang suy giảm nhưng thị trường việc làm của họ vẫn bị thiếu lao động đến mức căng thẳng nhất trong lịch sử. Các nhà kinh tế nhận định đây là hiện tượng đang ngày càng phổ biến khi các nền kinh tế phát triển đối mặt với dân số già hóa và tăng trưởng dân nhập cư tương đối thấp, những yếu tố trở nên rõ rệt hơn trong đại dịch Covid-19.

Dân công sở trên đường đến văn phòng làm việc ở London, Anh. Ảnh: AFP

Các nền kinh tế phát triển đối mặt với hiện tượng “jobful recession”

Cuộc thảo luận về hiện tượng kinh tế suy thoái nhưng cơ hội việc làm vẫn dồi dào (jobful recession) tập trung vào Mỹ, nơi số việc làm tăng thêm hơn nửa triệu trong tháng 7 và tỷ lệ thất nghiệp giảm xuống mức thấp trước đại dịch 3,5% ngay cả khi sản lượng kinh tế giảm trong quí 2. Tình trạng dường như khó lý giải tương tự cũng xuất hiện khắp thế giới.

Tại Đức, tăng trưởng đình trệ trong quí 2 và nước này đang đối mặt với rủi ro suy thoái khi nguồn cung năng lượng cạn kiệt. Nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở nền kinh tế lớn nhất châu Âu vẫn ở gần mức thấp nhất trong 40 năm và gần một nửa số doanh nghiệp ở Đức cho biết tình trạng thiếu lao động đang cản trở sản xuất. Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực sử dụng đồng euro (eurozone) cũng đang ở mức thấp kỷ lục. Tăng trưởng kinh tế New Zealand suy giảm trong ba tháng đầu năm, nhưng tỷ lệ thất nghiệp ở nước này đang ở mức 3,3%, sát với mức thấp nhất trong nhiều thập niên.

Bức tranh kinh tế nói trên trái ngược với hiện tượng “jobless recovery” (kinh tế phục hồi nhưng số người thất nghiệp vẫn cao) sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu năm 2008 khi tăng trưởng ở Mỹ và nhiều nền kinh tế ở châu Âu nhích lên nhưng tỷ lệ thất nghiệp vẫn ở mức cao trong nhiều năm.

Hiện tượng tăng trưởng thấp kèm theo tỷ lệ thất nghiệp ở mức thấp có thể xảy ra thường xuyên hơn ở nhiều nền kinh tế trong những năm tới, tương tự như câu chuyện mà Nhật Bản đã trải qua. Trong ba thập niên qua, tăng trưởng của Nhật Bản ở mức thấp hoặc âm, trung bình là 0,8%, nhưng tỷ lệ thất nghiệp của nước này chưa bao giờ vượt quá 5,5% và đã giảm đều đặn kể từ năm 2010, xuống còn 2,6% hiện nay, gần với mức thấp nhất trước đại dịch là 2,2%.

Các nhà kinh tế lý giải thị trường lao động của Nhật Bản thắt chặt là vì dân số già và có tương đối ít người lao động nhập cư, những đặc điểm đã trở nên rõ nét hơn ở các nền kinh tế tiên tiến khác trong thời kỳ đại dịch Covid-19.

Trong những năm trước đại dịch, Nhật Bản đã thực hiện các biện pháp để tạo điều kiện thuận lợi, giúp các bà mẹ có con nhỏ đi làm, cũng như giữ chân người lao động lớn tuổi và nới lỏng các hạn chế đối với lao động nhập cư, chẳng hạn cho phép sinh viên nước ngoài làm việc 28 giờ một tuần. Nhưng ngay khi những biện pháp đó đang bắt đầu có hiệu quả, đại dịch bùng phát và Nhật Bản buộc đóng cửa biên giới đối với hầu hết lao động nhập cư mới.

Tình trạng thiếu nhân công đã khiến Masaya Konno, một chủ doanh nghiệp ở Tokyo, phải tạm thời đóng cửa quán rượu kiểu Nhật của mình vào tháng trước. Ngay cả sau khi tăng lương lên 1.300 yen (khoảng 10 đô la)/giờ, cao hơn 100 - 200 yen so với mức lương phổ biến một năm trước, ông vẫn không thể tìm đủ nhân công. Konno nói: “Chúng tôi không thể vượt qua tình trạng thiếu lao động”.

Hai vấn đề nổi cộm: Lực lượng lao động giảm, tăng trưởng nhập cư chậm lại

Thất nghiệp và tăng trưởng thường có mối quan hệ có thể dự đoán được qua Định luật Okun, được đặt theo tên nhà kinh tế học Arthur Melvin Okun của Đại học Yale (Mỹ), người đưa ra định luật này vào năm 1962. Tại Mỹ, Định luật Okun dự đoán rằng sự sụt giảm 1% sản lượng kinh tế dưới mức tiềm năng sẽ dẫn đến tình trạng thất nghiệp tăng thêm 0,5 điểm phần trăm.

Tuy nhiên, Laurence Ball, giáo sư kinh tế tại Đại học Johns Hopkins, cho biết mối quan hệ đó có thể thay đổi tùy thuộc vào các yếu tố như sản lượng lao động mỗi giờ và tăng trưởng lực lượng lao động. Nếu có ít lao động và người tìm việc hơn, thị trường lao động có thể vẫn căng thẳng ngay cả khi tăng trưởng yếu.

Kể từ tháng 2 - 2020, lực lượng lao động Mỹ đã giảm khoảng nửa triệu người. Ở Đức, lực lượng lao động giảm khoảng 350.000 người trong cùng kỳ và con số này ở Anh khoảng 550.000 người.

Số người nhập cư đã tăng chậm lại trong những  năm qua ở các nền kinh tế phát triển do các chính phủ hạn chế nhập cảnh để ngăn chặn Covid-19. Tại New Zealand, số lượng người nhập cư bằng thị thực lao động đã giảm từ khoảng 240.000 người trong năm tài khóa 2018-2019 xuống chỉ còn 5.000 người trong năm tài khóa 2020-2021.

Tại Mỹ, tỷ lệ tăng trưởng dân nhập cư chậm lại bắt đầu vào năm 2017, khi chính quyền Tổng thống Donald Trump áp dụng một loạt chính sách nhằm hạn chế cả người nhập cư bất hợp pháp lẫn hợp pháp. Theo Cục điều tra dân số Mỹ, lượng người nhập cư ròng hàng năm của Mỹ giảm từ hơn 1 triệu người trong giai đoạn 2015-16 xuống còn khoảng 250.000 người trong giai đoạn 2020-21. Giữa lúc đó, nhiều lớn tuổi đã rời bỏ lực lượng lao động, trong một số trường hợp là để tránh tiếp xúc với Covid-19. Một số người trẻ tuổi nghỉ việc để chăm sóc con nhỏ hoặc các thành viên khác trong gia đình.

Có những dấu hiệu cho thấy khi vaccine làm giảm nguy cơ mắc bệnh nặng hoặc tử vong do Covid-19, nhiều người đã đi làm trở lại và hoạt động nhập cư được nối lại.

Tuy nhiên, những người lớn tuổi ở Mỹ vẫn chưa quay trở lại làm việc. Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của người lao động từ 65 tuổi trở lên ở Mỹ đã giảm xuống mức 23% từ 26% vào đầu năm 2020. Dân số Đức và Ý đang già hóa nhanh chóng và dự kiến hai nước này sẽ mất hàng triệu lao động trong thập niên tới do đến độ tuổi nghỉ hưu, vì vậy, tình trạng thiếu lao động sẽ còn kéo dài.

Mặc dù tỷ lệ thất nghiệp thấp liên tục nói chung hỗ trợ cho nền kinh tế, nhưng kinh nghiệm của Nhật Bản cũng cho thấy những mặt trái: Đó là là nền kinh tế không thể nhanh chóng hướng người lao động đến các khu vực tăng trưởng và điều này có thể hạn chế “sự phá hủy mang tính sáng tạo” (creative destruction) để loại bỏ các ngành công nghiệp lỗi thời và tạo ra các ngành công nghiệp mới có tiềm năng phát triển.

Takahide Kiuchi, nhà kinh tế tại Viện nghiên cứu Nomura và là cựu thành viên hội đồng chính sách của Ngân hàng trung ương Nhật Bản, cho biết: “Nền kinh tế Nhật Bản có thể có vẻ ổn định hơn với mức lạm phát thấp. Nhưng mặt trái của một nền kinh tế ổn định là tác động tiêu cực của những thay đổi chậm chạp trong cấu trúc nền kinh tế ”.

Theo Wall Street Journal

BÌNH LUẬN

Vui lòng nhập bình luận của bạn
Vui lòng nhập tên của bạn ở đây

Tin liên quan

Có thể bạn quan tâm

Tin mới